Tệp 8
– Tập III
(PHÂN ĐOẠN
2 TRUYỆN KÍ THỨ 10)
TRẦN XUÂN AN
BI KỊCH Ở ĐỈNH ĐIỂM
MÂU THUẪN
VÀ SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN
YÊU NƯỚC TẠI TRIỀU Đ̀NH
Truyện thứ mười
(phân đoạn 2)
3
Chiếc kiệu của đại thần Trần Tiễn Thành được phép ngừng ngay trước tam cấp
ngôi nhà vuông phía sau Tả vu Điện Cần chánh, nơi Viện – Bạc dùng làm chỗ
bàn thảo các việc cơ mật. Mặc dù ngoài bệnh lị mạn tính, kinh niên, Trần
Tiễn Thành c̣n mắc một bệnh mạn tính khác là phong thấp, hai chân tê buốt,
khó đi đứng, ông ta vẫn tham dự các cuộc họp quan trọng của Viện Cơ mật,
chỉ xin miễn vào chầu mỗi khi thiết triều. Những người lính hầu cận d́u
Trần Tiễn Thành vào bộ trường kỉ chạm xà cừ được đặt ở gian giữa. Ở đó, đă
có hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, cùng hai người phụ tá
được tin cậy nhất của Viện.
Sau lời thăm hỏi thường lệ, cuộc họp của ba đại thần, thực chất là lănh
đạo tất cả các mặt của Đất nước, bắt đầu.
- Sức khoẻ tôi quá tệ, do đó, xin đại thần Nguyễn Văn Tường chủ tŕ cuộc
họp cho. – Trần Tiễn Thành nói với giọng mỏi mệt của một ông lăo bảy mươi
mốt tuổi đang bị bệnh hành hạ, mặc dù da thịt vẫn hồng hào, đỏ đắn, khiến
người ta tưởng ông ấy giả vờ –.
- Vâng, nếu thế xin mạn phép. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói –. Tôi xin
lướt qua vài nét về t́nh h́nh nội bộ triều đ́nh, kể cả việc nội cung, đă
chuẩn bị đ́nh nghị. Sau đó, Viện Cơ mật – Thương bạc chúng ta sẽ bàn về
việc cử sứ bộ sang nước Thanh để báo tang, đề nghị sắc phong cho tân vương
(27). Vấn đề
thứ ba là t́nh h́nh giặc Pháp, “tả đạo” tại
Bắc Ḱ và ở một vài nơi khác (28). Trong đó, sẽ một lần nữa xác định lại
quyết sách và chủ trương chung của chúng ta. – Ngừng lại, rồi thượng thư
Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Về việc tấn tôn Từ Dũ thái hoàng thái hậu
Phạm thị, lệnh từ của tiên đế Tự Đức, tấn phong Khiêm hoàng hậu Vũ thị,
dưỡng mẫu của Dục Đức, đó là việc thực hiện di chiếu, di chúc; và việc
tấn phong hoàng thái phi Trương thị, thân mẫu của vua Hiệp Hoà, cũng là
cách xử trí linh hoạt, quyền biến nhưng hợp với luật lệ, hợp với các
điển lệ trong sách sử
(29).
Hoàng thân Tuy Lư vương Miên Trinh cùng các quan Nội các, Sử quán, Quốc tử
giám đă nghiên cứu kĩ (29). Vua Hiệp Hoà cũng đă tâu lên Từ Dũ thái hoàng
thái hậu. Ngài đă cho thi hành (29).
Thượng thư Tôn Thất Thuyết nói:
- Như vậy là ổn rồi. Cái chính là t́nh h́nh giặc Pháp.
- Trước khi bàn nội dung chính ấy,– Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nói –,
tôi đề nghị chúng ta bàn thêm việc cử sứ bộ sang Trung Hoa nhà Thanh. Đ́nh
thần cử tuần phủ Lạng Bằng Lă Xuân Oai sung chức hậu mệnh chánh sứ, trực
học sĩ toản tu ở Sử quán là Nguyễn Khuyến (nhà thơ tam nguyên Yên Đổ) làm
phó sứ (27).
- Vậy là hợp lí rồi. Nếu đi đường bộ không tiện, th́ đi đường biển.
- Về giặc Pháp, sau khi tên đại tá Lư Ba Lợi (Vy Ê [:Henry Rivière]) bị
quân họ Lưu do thống đốc họ Hoàng điều khiển hạ sát, hồi tháng tư nguyệt
lịch Quư mùi (1883), chính phủ Pháp nhất trí theo Bộ Hải quân và Thuộc địa
của chúng cử tên Mai De (Meyer) sang Bắc Ḱ thay thế. Ở nước Pháp, do hiện
nay lực lượng viễn chinh xâm lược của chúng ở Địa Trung Hải, Ai Cập,
Tunysie đă ổn định được t́nh h́nh, v́ thế, nhân dịp này, bọn Pháp cầm
chính quyền đang tuyên truyền rùm beng cho tên giặc văn sĩ Henry Rivière,
để kích động nhân dân Pháp ủng hộ chúng trong việc xâm lược Bắc Ḱ. Chính
phủ Pháp gồm các tên xâm lược đă đồng thuận việc đánh chiếm Bắc Ḱ. Tên
tướng Bouet đă dẫn thêm quân và tàu chiến tới Bắc Ḱ với số lượng khá
nhiều. Hiện nay, tên tướng khác, là Cô Bi (Courbet), cũng đă đến tăng
cường. C̣n tên y sĩ Hà A Măng (Harmand), thời trước cùng An Nghiệp Ngạc
Nhe (Françis Garnier) xâm chiếm Bắc Ḱ, sau này làm lănh sự ở kinh đô Băng
Cốc nước Xiêm, đang được bọn chóp bu ở Pháp cử làm cao uỷ Trung – Bắc Ḱ,
thống lănh cả các tên tướng Meyer, Bouet, Courbet (28). Bọn chúng c̣n dự
định đánh vào cửa hải pḥng kinh đô là Thuận An. Viện Cơ mật ta đă được
các tin quân báo của các quân thứ ở Bắc Ḱ tâu vào. Việc này, bản tâu của
Viện ta hôm trước đă đề cập và nhận định rằng, chúng
“đến cửa Thuận An bắt
hiếp phải hoà, ta cũng khó giành được phần thắng” (24) .
Do đó,
lúc quan đại thần Trần Tiễn Thành bệnh, tôi và đại thần Tôn Thất
Thuyết đă quyết định lấy tấn công làm pḥng thủ, tức là muốn khỏi bị bọn
Pháp tấn công Thuận An, th́ phải tấn công vào sào huyệt của chúng tại Bắc
Ḱ, nhắm vào binh lực của chúng đang tập trung ngoài ấy. – Thượng thư
Nguyễn Văn Tường tŕnh bày, lại nói với vẻ căm giận –. Thế mà hiện nay,
thuế quan tấn ở Hà Nội, phái viên Pháp thu lấy, không cho quan ta biên sao
theo thương ước Giáp tuất 1874, có nghĩa là chúng ngang ngược đơn phương
chiếm giữ lấy tiền thuế thu được
(30). Ở cửa biển
Thi Nại tỉnh B́nh Định, trước đây, cũng
như tên khâm sứ Rheinart tại kinh đô Huế, lănh sự ở đấy đă bỏ chạy, nay
chúng lại đem tàu binh đến đỗ, toan tính lại đến thu thuế thương chính!
“Trước đây lănh sự nước Pháp từ biệt ra đi [như Rheinart rời Huế], trụ
sở giao cho quan tỉnh trông coi. Đến nay nước Pháp [đem] tàu đậu ở cửa
biển, đến xem trụ sở, và hỏi mỗi tháng thu thuế được bao nhiêu” (31)
! Và cũng trong thượng tuần tháng bảy này, tàu chiến nước Pháp lại
đỗ ở cửa biển Tư Hiền (tỉnh Thừa Thiên), cho lính xuống thuyền ván gỗ sam
vào đo lường mực nước cửa biển, rồi chạy đi (32). Tầu của bọn giặc Pháp
lại đến ba chiếc, đỗ ở Đồn thuỷ Hà Nội, đào chân đê, đắp đường sá, làm luỹ
hàng rào, ổ súng (33). Lại có thêm sáu chiếc tàu binh Pháp từ Bắc Ḱ chạy
đến cửa biển Trà Úc (Quảng Nam) (34)! Viện – Bạc chúng ta đă tâu: “Phái viên nước Pháp từ trước chỉ làm việc ở Bắc Ḱ. Hai bên giữ nhau. Chúng
lại bỏ đấy mà mưu toan chỗ khác, th́ bởi quân thứ Bắc Ḱ giữ lâu cho giặc
được rỗi th́ giờ. Chúng mưu tính chỗ khác, th́ sức lực chia ra. Quan quân
thứ không nhân lúc này tiến đánh ngay, c̣n đợi lúc nào? Xin tư ngay cho
hai quân thứ Sơn Tây, Bắc Ninh biết rơ t́nh h́nh ấy, lập tức phải đánh
ngay, để bắt buộc thế giặc” (35). Hôm ấy, “vua cho lời tâu ấy là
phải, sai lục sức ngay… v́ nước Pháp phái tàu binh đến cửa Trà Úc rất
nhiều, giáp gần với cửa Thuận An” (35) .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường ngừng lại, nhấp một ngụm nước trà đă nguội,
lại nói:
- Như vậy, ngày càng rơ là thế cưỡi hổ đă thành, buộc chúng ta phải cùng
với chúng quyết một phen sống chết, một mất, một c̣n, v́ t́nh h́nh ngoại
giao ở Bắc Kinh, với sự trợ giúp của Lư Hồng Chương, ở Anh, Pháp với sự
trợ giúp của Tăng Kỷ Trạch, xem như bị bế tắc. Mấy tháng trước, lănh sự
Pháp Bảo Hải (Bourée) đă bị điều về Pháp, Lư Cố (Tricou) đă sang thay,
quyết không chịu điều đ́nh! Sứ bộ ta do chánh phó sứ Phạm Thận Duật,
Nguyễn Thuật ở Thiên Tân (Trung Hoa) và Nguyễn [Thượng] Phiên ở Quảng Đông
(Trung Hoa), cũng thương thuyết không có kết quả ǵ (36). Nguyên nhân là
chính phủ thực dân Pháp quyết từ chối mọi điều đ́nh với Trung Hoa nhà
Thanh về Đại Nam ta! Rơ ràng thế cưỡi hỗ đă thành, nhưng chiến
thuật lấy tấn công làm pḥng thủ cũng không có kết quả cao ở Bắc Ḱ! Tên
Harmand lại vừa đưa yêu sách như một thứ chiến thư (37)! Trước t́nh h́nh
như vậy, xin các đại thần chúng ta cho ư kiến để tâu lên quyết sách của
Viện Cơ mật ta.
Đại thần Viện Cơ mật trẻ tuổi nhất là thượng thư Tôn Thất Thuyết. Ông muốn
giữ lễ, nhưng vốn là một tướng vơ, không ḱm được tức giận, liền nghiến
răng, nắm tay đóng mạnh xuống mặt bàn:
- Như vậy là phải một phen sống chết! Tôi đă tăng cường pḥng thủ ở cửa
Thuận An, quyết chiến với tinh thần “chết vinh hơn sống nhục”! Các
tướng Lê Sỹ, Lâm Hoành, Nguyễn Trung và Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ
đă hạ quyết tâm với tôi như thế! Ở kinh thành, thự chưởng phủ sự Tôn Thất
Thế, thự đô thống Hồ Văn Hiển, thự thống chế Đinh Tử Lượng, lănh đề đốc
phủ Thừa Thiên Tôn Thất Côn cùng với một viên tướng tài Trần Xuân Soạn,
tiến sĩ vơ khoa Vũ Văn Đức cũng quyết tâm như vậy (38)!
Thần Tiễn Thành, vốn vừa ngán sợ, vừa cảm phục đại thần Tôn Thất Thuyết,
liền giấu một nụ cười nhạt. Ông ta nói:
- Nhưng hoàng thượng Hiệp Hoà đă sai tham tri Bộ Binh Nguyễn Thành Ư cùng
viên hành nhân linh mục Nguyễn Hữu Cư xuống cửa biển Thuận An theo chiến
thư của Harmand để thương thuyết (39)!
Nguyễn Hữu Cư, tên giáo sĩ nhị trùng suưt chút nữa là ngang nhiên ra vào
nội cung để điều khiển Dục Đức (Ưng Chân), không những được khoan tha,
miễn bị xử tội một lượt với mười bốn tên tay chân trong bọn Nguyễn Như
Khuê, nay vẫn được triều đ́nh Hiệp Hoà sử dụng với chức năng hành nhân (thông
ngôn), trực thuộc Nha Thương bạc, bên ngoài kinh thành.
Thượng thư Tôn Thất Thuyết không thể không thấy nóng bừng cả đầu v́ tức
giận. Ông không ngờ vua Hiệp Hoà lại dám tự quyết định không thông qua tập
thể hội đồng các quan phụ chính! Rơ ràng ông và thượng thư Nguyễn Văn
Tường không hay biết điều đó! Mới đây, việc tàu Pháp vào cửa biển Tư Hiền,
ông và thương thư Nguyễn Văn Tường đă quyết định: “Nếu [tàu Pháp] vào
nhiều quá (ba, bốn chiếc trở lên) th́ thương thuyết ngăn lại không cho,
do quan cửa biển ấy theo ước thúc làm ngay [theo “hoà” ước, giục quân đánh
ngay] cho kịp việc” (40) . Bấy giờ, vua Hiệp Hoà bảo: “Hai đồn
đóng giữ cửa biển ở kinh vừa không đủ trông cậy. Nếu không biết cơ nghi,
hiểu lí thế, th́ không được. Nên giữ ǵn mà thôi, không nên gây hiềm khích”
(40) . Không phải hai thượng thư Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất
Thuyết muốn gây hiềm khích, nhưng, “hoà ước rơ ràng, mà chúng dám coi
thường như thế, th́ hoà ước cũng không đủ cậy. Ta đă chịu khuất, không
dám tranh đua sức mạnh, mà chúng cũng chưa từng thương kẻ yếu” (24)
! Dẫu sao, cũng không thể đầu hàng, mà phải quyết sử dụng chiến thuật
lấy tấn công làm pḥng thủ. Nhưng vua Hiệp Hoà sau những tuần chịu ảnh
hưởng của hai đại thần chủ chiến là ông và thượng thư Nguyễn Văn Tường,
nhà vua lại ngă về phía chủ “hoà”; thậm chí đang lúc dầu sôi lửa bỏng ngay
tại kinh đô, vua Hiệp Hoà c̣n vun quén cho thân mẫu, người thân bên phi
tần và bên ngoại như Lê Văn Phú, Nguyễn Duy Thiện (41)…
Ba đại thần Viện – Bạc lại bàn về vụ Nguyễn Văn Thịnh lộng ngôn, bất tốn.
“Lúc bấy giờ [thượng tuần tháng bảy nguyệt lịch Quư mùi (1883)], người
xă Long Hồ (huyện Hương Trà) là Nguyễn Văn Thịnh đi đến bến đ̣ Vạn Xuân (gần
[kinh] thành, ngoài cửa Tây nam), nhân say rượu, nói liên thanh, nói đến
việc tự tiện bỏ vua này, lập vua khác, nói nhiều câu bất tốn. Bọn [Nguyễn
Văn] Tường, [Tôn Thất] Thuyết tâu xin đem chém bêu đầu ở chỗ phạm tội. Vua
không nghe, cho đổi làm trảm giam hậu… […] …” (42) .
Thượng thư Tôn Thất Thuyết nói:
- Miệng bọn đầu hàng, ngu muội thời nào cũng có. Hiện nay có nhiều kẻ c̣n
cho tôi và thượng thư Nguyễn Văn Tường là “quyền thần”, “làm bậy”! Tên
thường dân Nguyễn Văn Thịnh này mượn rượu để nói lộng ngôn, bất tốn, nhưng
hắn ta nào hiểu ất giáp ǵ về vụ việc! Chả là ngay trước khi tên Thịnh này
dám táo gan, Viện – Bạc tâu xin nhà vua ra sắc dụ với tinh thần “lấy tấn
công làm pḥng thủ”. Mấy bản sắc dụ quyết chiến ấy khiến bọn chủ “hoà”,
đầu hàng, bọn “tả đạo” điên tiết. Chúng thuê tiền tên Nguyễn Văn
Thịnh hoặc tuyên truyền kích động hắn ta, phục rượu hắn ta, nên mới thế!
Hắn ngu muội, lại chửi rủa tôi và thượng thư Nguyễn Văn Tường đây! Thực ra,
chỉ sợ nhân tâm, ḷng dân dao động… Nhưng nhà vua không duyệt, chuẩn y,
th́ tôi nào dám chém ai! Một tên dân thường “mượn rượu chửi đại thần”
như Nguyễn Văn Thịnh, tôi không dám tự ư trảm quyết, th́ “quyền thần”
ở chỗ nào? Quyết đánh giặc Pháp, lấy tấn công làm pḥng thủ là
“làm bậy” chăng?… Những kẻ như tên Nguyễn Văn Thịnh không hiểu rằng, không
có việc “bỏ vua này, lập vua khác” th́, không tốn một viên đạn,
giặc Pháp và “tả đạo” ung dung đặt ngai vàng “quan Pháp bảo hộ” song song
với ngai vàng vua Đại Nam ta!
Thượng thư Tôn Thất Thuyết những muốn dùng từ “ngu trung” để chỉ những
người dân ngu muội về chính sự như Nguyễn Văn Thịnh, nhưng tự thấy
cũng không cần nói rơ làm ǵ! Thật ra, ông tự thấy với bản tính quan vơ,
quen ở trận mạc, trước ba quân vốn xem “quân lệnh như sơn”, ông cũng đă
vừa nói những câu hơi thiếu dè dặt, rào đón, cẩn trọng…
Trong thâm tâm, hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thừa hiểu,
vua Hiệp Hoà đến nay cũng rất muốn chủ “hoà”, lại bị sức ép nào đó, cho
nên giảm án thành “tội chém nhưng giam lại chờ xét”… Hay vua Hiệp
Hoà không hiểu rằng có phe cánh, thế lực nào đó đă “đạo diễn” vụ
Nguyễn Văn Thịnh “mượn rượu chửi đại thần” để truất bỏ “quyền thần”
(!) chăng?…
Rốt cùng, sau
khi bàn xong vài vấn đề nhỏ khác, thượng thư Nguyễn Văn Tường nêu câu hỏi
về điều bức thiết, nghiêm trọng nhất:
- Ư kiến của quan lớn Trần Tiễn Thành là như thế nào trước t́nh h́nh dầu
sôi lửa bỏng này, giặc de doạ bức bách cửa biển Thuận An bằng tàu chiến,
súng đạn với dự thảo “hoà” ước mới gồm hai mươi bảy khoản mà hồi sinh
thời, tiên đế Tự Đức đă quyết phản đối, phản đối nhưng rồi phải chấp nhận
qua quưt để hoăn binh, và cuối cùng là quyết liệt phản đối cả phụ ước kiểu
Tunysie kèm vào “hoà” ước Giáp tuất 1874 (43) lẫn dự thảo “hoà” ước
mới gồm hai mươi bảy khoản ấy?
- Tôi vẫn chủ “hoà”. Nếu không th́ thua sạch, mất tất cả! – Trần Tiễn
Thành đáp với giọng run run của một người già –.
Cuộc họp Viện Cơ mật của ba đại thần với hai ư kiến quyết chiến và một ư
kiến “hoà” (“hoà” có nghĩa là nhân nhượng, đầu hàng). Trong khi đó, trước
t́nh h́nh căng thẳng nhất, căng thẳng chưa từng có trước đây, là lúc này,
đ́nh thần lại phân hoá. Sở dĩ ở cuộc họp Viện – Bạc này, Trần Tiễn Thành
không cáo ốm cũng v́ phe cánh chủ “hoà” lại đông hơn, một khi vua Hiệp Hoà
đă cố thoát khỏi ảnh hưởng chi phối của hai đại thần chủ chiến Nguyễn Văn
Tường, Tôn Thất Thuyết, gần như ngă hẳn về phe chủ “hoà”, mặc dù nhà vua
c̣n nể nang.
Ngay sau cuộc họp, bản tâu được đệ tŕnh lên vua Hiệp Hoà, thượng thư
Bộ Binh Tôn Thất Thuyết liền nai nịt chiến bào, dẫn quân xuống thành Trấn
Hải tại cửa biển Thuận An.
4
Bấy giờ, tháng bảy nguyệt lịch, Quư mùi (1883), c̣n thuộc vào năm thứ ba
mươi sáu của niên hiệu Tự Đức, mặc dù vua Tự Đức đă băng hà. Tại Hải Pḥng
ngoài Bắc, có mặt tên Harmand, hiện là cao uỷ Trung – Bắc Ḱ, một chức vụ
của giới cầm quyền chóp bu Pháp phong cho y, như thể Trung – Bắc Ḱ đă
thuộc về tay chúng. Harmand đang đảm trách phần hành trước đây c̣n thuộc
quyền tên thống đốc Nam Ḱ, bởi lẽ hiện nay, tại Bắc Ḱ, quân thuộc bọn
Pháp đông đảo nhất từ trước đến nay: Số lượng hạm đội và quân binh viễn
chinh Pháp, cộng với sáu trăm (600) tên ngụy Cờ Vàng, vốn là giặc Cờ, giặc
khách (Hán gian) do tên Georges Vlavianos (“ông” Kiều), nguyên là tay chân
của Jean Dupuis thuở nọ, chiêu tập làm tay sai, và c̣n có thêm số quân ma
tà (giáo dân “tả đạo”) của các cố đạo thực dân (44). Harmand c̣n có
chỉ thị, xui người Bắc Ḱ chống người Trung Ḱ (44)… Lúc này,
Harmand đang cùng hai tên tướng viễn chinh Pháp họp bàn. Đó là thiếu tướng
lục quân Bouet và thiếu tướng hải quân Courbet
(44).
Ba tên thực dân cao cấp của Pháp quyết định tấn công Hải Dương, để uy hiếp
Bắc Ḱ, trong khi đó, chúng xác định mũi tấn kích quyết định là Thuận An,
cửa ngơ của kinh đô Huế, nhằm buộc triều đ́nh Đại Nam phải đầu hàng (44).
Các quan tỉnh Hải Dương trước đây đă tuân dụ quyết chiến và dời thành của
tỉnh về xă Phúc Cầu, huyện Đường An để xa đường sông, tàu thuỷ Pháp khó
tấn công (45). Tất cả tiền bạc, gạo dự trữ và khí giới đều chuyển về đó,
nhưng phân tán để tránh trường hợp như thành Hà Nội, thất thủ v́ kho thuốc
súng bị phá nổ. Tại thành cũ, chỉ c̣n phó lănh binh quan Nguyễn Viết Vinh
đóng giữ. Án sát Lê Mộ Khải, đề đốc Tôn Thất Hoè giữ phần hành đốc công
xây dựng thành mới. Tổng đốc Lê Điều (người thay Phạm Phú Thứ trước đây)
cùng bố chính sứ Vũ Túc đến làm việc tại nơi tạm đặt trụ sở là nhà quan cư
của văn miếu tỉnh (45). Phái viên Pháp do thám được tin tức ấy. Ngày mùng
mười, một ngày cuối của thượng tuần tháng bảy nguyệt lịch (12.08.1883),
Pháp đem bốn chiếc tàu chiến kéo đến đồn Đồng Tân, chia lính lên bộ, vào
thành cũ, treo cờ “tam tài” xanh trắng đỏ (c̣n gọi là cờ ba khoanh). Pháp
bố trí quân chiếm giữ cửa thành. Nguyễn Viết Vinh rút quân về thành mới.
Pháp lại kéo quân đến thành mới đánh phá.
Tổng đốc Lê Điều uỷ cho đề đốc Tôn Thất Hoè, lănh binh quan Văn Phú Lương
dẫn quân ra nghinh chiến. Sau đó, Lê Điều trực tiếp cầm quân tiếp ứng.
Trận chiến rất dữ dội, kịch liệt.
Bất ngờ, quân Pháp đă bố trí sẵn một cánh quân khác, đánh bọc hậu vào quan
quân Hải Dương. Quân ta bị ép vào giữa hai trận đạn. Không cầm cự nổi,
quân ta bị rối loạn hàng ngũ, vỡ tan. Tổng đốc Lê Điều thu góp tàn quân về
đóng tại huyện hạt Cẩm Giàng, Đường Hào.
Thành mới,
thành cũ Hải Dương đều bị mất vào tay giặc (45)!
Sau khi chiếm hai thành luỹ Hải Dương, Pháp quyết tấn công quân thứ Sơn
Tây vốn do thống đốc Hoàng Tá Viêm trực tiếp chỉ huy và đoàn quân của Lưu
Vĩnh Phúc. Quân thứ và đoàn quân ấy hiện đang đồn trú tại Hương Canh, Phù
Diễn (thuộc phủ Hoài Đức), Hoàng Xá, Đại Cát (thuộc huyện Đan Phượng). Phủ
Hoài và huyện Đan Phượng đều trong địa phận Hà Nội. Bọn Pháp quyết tâm báo
thù cho đại tá Henry Rivière của chúng.
“Người Pháp tự sau khi thua ở trận Cầu Giấy, đem thêm tàu binh đến,
chiêu mộ quân khách [Hoa kiều], cùng dân đi đạo [“tả đạo” Thiên Chúa giáo],
quyết ư đánh một trận to với quân thứ Sơn Tây để báo thù” (46) .
Ngày mười ba tháng bảy nguyệt lịch (15.08.1883), Pháp kéo cả quân thuỷ,
quân bộ, chia làm bốn đạo binh, tiến về phía quân ta một cách hùng hổ, dữ
dội.
“Thống đốc Hoàng Tá Viêm đốc thúc quan quân cùng đoàn quân họ Lưu, bốn
mặt tiếp ứng. Quan nước [Trung Hoa nhà] Thanh là Đường Cảnh Tùng cũng phái
quân các doanh cùng đánh giúp. Các đạo quân [bên ta] đều hăng hái cố đánh.
[Trận chiến nổ ra] từ giờ măo đến giờ dậu [từ 5 – 7 giờ sáng đến 17 – 19
giờ tối]. Quân Pháp thua chạy. Các quân thừa thắng bắn và chém hơn hai
trăm (200) tên [Pháp và ngụy], rồi đem tin thắng trận ấy tâu lên” (46)
.
Đây là trận đầu tiên quân Thanh trực tiếp tham chiến, mặc dù binh
tướng Thanh đă qua đóng quân tại Bắc Ḱ từ tháng bảy Nhâm ngọ (1882).
Pháp đă bại trận một cách nhục nhă! Nhưng tin báo tiệp chưa kịp vào đến
Huế…
Tuy bại trận như thế, nhưng Pháp vẫn cố theo đuổi kế hoạch của chúng. Pháp
lại tập trung nhiều tàu chiến ở cửa biển Trà Úc (Quảng Nam) như tin Hải
pḥng sứ tỉnh ấy tâu ra, cấp tốc bay trên lưng ngựa theo đường trạm.
Thượng thư Bộ Binh, điện tiền tướng quân Tôn Thất Thuyết đă đích thân
xuống cửa biển Thuận An (Thừa Thiên) để chỉ đạo mặt trận. Hiệp Hoà trong
ḷng đă run rẩy, bỗng đâm ra luyến tiếc ngai vàng ngồi chưa ấm chỗ, nhưng
bên ngoài vẻ mặt, vẫn thuận theo tinh thần quyết chiến của hai quan phụ
chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết. Vua cho viên quan trực nhật là
chưởng vệ Nguyễn Văn Sỹ mang một lá cờ lệnh, một cái ngự bài binh sự để
giao cho tướng quân Tôn Thất Thuyết (47). Với cờ lệnh, ngự bài ấy, tướng
quân Tôn Thất Thuyết đều được toàn quyền quyết định cuộc giáp chiến quyết
định này tại cửa ngơ kinh đô là Thuận An. Tuy nhiên, Hiệp Hoà vẫn lo âu,
tiếc nuối, nói thêm lời răn đe để Nguyễn Văn Sỹ về bẩm báo lại cho tướng
quân Tôn Thất Thuyết:
“Nếu giảng “hoà” được cũng nên ṭng quyền làm kế hoăn binh. Hết thảy
mọi việc cốt phải muôn phần không c̣n lo ngại để giữ ǵn tôn miếu, xă tắc,
là sức ngươi cả. Nếu cậy khoẻ hiếu thắng, không biết cơ nghi, tất phải
trách cứ rất nặng”
(47)
.
Chưa chiến đấu, Hiệp Hoà đă răn đe tướng mặt trận không nên chiến đấu!
Trên mặt sóng biển một ngày rực nắng, tướng quân Tôn Thất Thuyết đứng bên
cạnh con trai là Tôn Thất Đàm, ông đang quan sát bằng ống nḥm thiên lí,
bỗng thấy một chiếc tàu binh Pháp treo cờ ba khoanh xanh trắng đỏ xuất
hiện. Nhưng sao chỉ một chiếc? Tay cầm hơi khẽ chao động, và lập tức,
những ngón tay như bóp chặt chiếc ống nḥm. Ông chú mục quan sát, chuẩn
bị ra lệnh cho quân sĩ sẵn sàng nghinh chiến. Tướng Tôn Thất Thuyết chợt
thấy trên chiếc tàu binh Pháp ấy xuất hiện một tấm biển màu trắng có ghi
đậm nét hai chữ “bàn hoà” bằng chữ Nôm và chữ Hán. Pháp “bàn hoà”?
Tàu mỗi lúc một tiến gần đến dải cát Thai Dương thượng và Thai Dương hạ,
dải cát ngay trước cửa sông Hương. Dải cát ấy cách bờ đất liền và cùng với
bờ đất liền làm nên phá Tam Giang phía bắc và đầm Sam phía nam. Tướng quân
Tôn Thất Thuyết vẫn truyền lệnh cho quân sĩ sẵn sàng nghinh chiến, nhưng
không được nổ súng, nếu chưa có lệnh tiếp theo được truyền ra. C̣n hơn hai
dặm ta (hai ngàn thước ta = 425 m x 2), như thể bỏ neo, chiếc tàu Pháp cho
hai chiếc thuyền ván gỗ sam nhỏ chở vài sĩ quan Pháp với mươi tên lính và
chèo tay vào bờ!
Hoá ra, bọn Pháp trao chiến thư (48)!
Bấy giờ, một chiếc tàu tuần tiễu của ta đang trở về, thấy tàu giặc với hai
chữ “bàn hoà”, liền theo thông lệ, áp sát đến hỏi: “Tàu Pháp đến “bàn hoà”
hay thực tâm có việc ǵ?”. Bọn Pháp chỉ vào hai chiếc thuyền sam bản đang
chèo vào. Tàu tuần tiễu liền vào bờ.
Tham tri Bộ Binh Nguyễn Thành Ư và linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư vốn đă
được vua Hiệp Hoà phái về Thuận An mấy hôm trước, liền đến giảng thuyết
với sứ giả Pháp. Tên phái viên Pháp liền nói xấc xược nhưng cũng để hoăn
binh, cho tiện việc rút lui:
- “[Nguyễn] Thành Ư trước ở Gia Định, tướng [Thom-son] nước [Pháp] ấy
không bằng ḷng, nay đến thương thuyết, là khinh sứ phái [coi thường việc
phái sứ đi bàn hoà]” (49) .
Nguyễn Thành Ư nói ngay:
- Sao câu nệ thế! Sứ giả chỉ tuân mệnh vua!
- Xin hăy đọc chiến thư! Tạm biệt!
Bọn Pháp chào và rút xuống thuyền, ngạo ngược, không thèm “bàn hoà” lấy
nửa tiếng!
Khi mở vội
phong thư ra xem, hai chiếc thuyền nhỏ đă xa bờ! Theo tinh thần thượng vơ,
tướng quân Tôn Thất Thuyết không cần ra lệnh nổ súng vào những tên sĩ quan
sứ giả cùng toán lính Pháp ấy. Ông giận dữ, khi biết tối hậu thư của Pháp
đ̣i triều đ́nh giao tất cả các pháo đài từ cửa Thuận An lên dọc tuyến sông
Hương cho chúng trong ṿng hai giờ đồng hồ!
Tại triều đ́nh, lúc này, vua Hiệp Hoà chỉ bàn việc quân cơ với Trần Tiễn
Thành, Nguyễn Trọng Hợp và Tuy Lư vương Miên Trinh! Khi nhận được tin Pháp
trao chiến thư, vua Hiệp Hoà liền sai Trần Thúc Nhẫn (Nhận) và Phạm Như
Xương xuống tiếp để cùng Nguyễn Thành Ư đàm phán, với lời dặn “đại
khái đem các việc vua cũ mới chết, vua mới [vừa] mới lên ngôi, giữ lẽ bàn
bạc” (50) !
Năm ngày sau
khi bọn Pháp đánh vào thành mới Hải Dương, vào ngày mười lăm tháng bảy
nguyệt lịch, Quư mùi (17.08.1883), chúng từ Bắc liền kéo vào và từ Trà Úc
(Quảng Nam) chạy ra, tất cả gồm tám chiếc tàu chiến loại tối tân nhất của
chúng. Trên tàu chỉ huy, có các tên Pháp cao cấp như Harmand, Courbet, và
cả tên khâm sứ cũ, De Champeaux (51).
“[Trần] Thúc
Nhẫn, [Phạm] Như Xương vừa đến thành Trấn Hải, tàu Pháp đánh bắn luôn
mấy ngày, [họ] không ra cửa biển [Thuận An] được” (52) . Cả hai
chưa kịp thương thuyết một lời. Quả là bọn Pháp quyết thực hiện theo
thư của tướng Pháp ở Gia Định, mấy tháng trước, lúc vua Tự Đức chưa băng
hà, y đă đệ tŕnh về Pháp:
“Sau khi thất
bại [ở Gia Lâm và] Hà Nội, nên bỏ cái cách dùng thương thuyết. Khi nào
Tự Đức nghe tiếng đại bác đầu tiên th́ Tự Đức mới kí hoà ước. Cho nên,
phải đánh ở Huế. Muốn đánh Huế th́ phải lấy pháo đài Thuận An”
(53) .
Ngày mười
(10) tháng bảy (07) 1883, tên Challemel Lacour, bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Pháp đă đọc diễn văn trước Hạ viện (Viện Thứ dân) Pháp:
“Nay phải
giải quyết việc Viễn Đông bằng chiến tranh” (54) !
Từ mười sáu
(16) giờ đến hai mươi (20) giờ, ngày mười sáu nguyệt lịch (19.08.1883),
trước hạn cuối của tối hậu thư một tiếng rưỡi, tàu Pháp đă liên tục bắn
đại bác vào đồn luỹ của ta. Các cỗ súng lớn của ta cũng đáp lại gịn giă,
nhưng rất tiếc, tàu chiến Pháp đậu khá xa, quá tầm đạn đại bác thần công.
Ngày mười bảy (20.08.1883), cuộc đấu trọng pháo giữa ta và địch vẫn rất
kịch liệt. Đạn đại bác của chúng có sức công phá, rơi xuống lại nổ bùng,
văng ra bốn phía những miểng gang, miểng sắt bén nhọn. Những thành luỹ
bằng gạch vồ kiên cố, đạn đại bác của Pháp vẫn xuyên phá, tạo nên những lỗ
to bằng chiếc thúng, đồng thời gây ra những vết nứt toác. Bức tường nào
mỏng, trúng đạn pháo của chúng, liền sụp đổ ngay. Những luỹ đắp bằng đất
cứ bị trúng đạn, văng tung tóe. Trong khi đó, các cỗ súng đại bác của quan
ta, loại quá sơn, thần công cũng như các loại khác, đều nạp đạn từ ṇng
súng, bắn bằng loại đạn bằng sắt hoặc bằng gang, kích thước đủ các cỡ,
đường kính từ khoảng mười (10) đến hơn ba mươi (30) phân tây, nhưng không
nổ lại khi chạm mục tiêu, không có sức công phá. Bắn đi như thế nào, rơi
xuống vẫn y nguyên như thế. Loại đạn đại bác này chỉ hiệu quả khi bắn vào
các chiếc tàu bằng gỗ. Trúng đạn, tàu gỗ thủng ngay, và tất nhiên phải
ch́m tàu v́ nước tràn vào. Nhưng với tàu bọc đồng của Pháp, loại đạn ấy
bắn trúng vẫn rất khó thủng. Tầm bắn lại không được xa. Bọn Pháp biết được
tầm bắn của đại bác quân ta, nên chúng đậu thuyền xa hơn tầm bắn. Đạn quân
ta hầu hết bị rơi xuống biển! Tuy thế, quân binh ta vẫn kiên cường chống
trả. Tàu chiến Pháp không dám tiến vào tiếp cận mục tiêu.
Hai chiếc tàu
chiến, một thuộc loại thiết giáp hạm, đó là Bayard, và một chiếc khác,
thuộc loại tuần dương hạm, tên Vipère, cố mạo hiểm lao vào, cả hai đều bị
trúng đạn của pháo binh ta từ thành Trấn Hải và từ các đồn Hoà Duân (hoặc
Hoà Quân, không phải là Hà Nhuận!), Cồn Sơn, Hạp Châu bắn ra. Chính trên
chiếc tàu chiến Bayard, lại có mặt tên Harmand và De Champeaux (51)!
Ngày mười tám
Nam lịch (21.08.1883), quân ta từ kinh thành lại kéo xuống tiếp viện. Cuộc
chiến đấu vẫn rất quyết liệt, mặc dù quân ta bị tổn thương không ít. Hai
chiếc tàu chiến Vipère và Lynx, mặc dù Vipère đă trúng đạn nhưng kịp thời
được sửa chữa, đă tiến vào thành Trấn Hải. Trấn Hải là nơi bọn Pháp tấn
công dữ dội nhất nên bên ta đă im tiếng súng bắn trả. Trần Thúc Nhẫn liền
nhảy xuống biển tử tiết.
Đồn phía nam
dải cát Thai Dương vẫn tiếp tục bắn ra tàu giặc. Tiếng đại bác và súng cầm
tay ở các đồn Hạp Châu, Cồn Sơn, Hy Du, Lộ Châu, và một đồn đang xây dựng
dở dang là Cồn Tè, vẫn chưa nao núng trước các chiến thuyền Atlante,
Bayard, Drace, Cateau Renaud, Vipère và Lynx (51)…
Đêm đến, Pháp
chia quân xuống thuyền nhỏ bằng gỗ sam, vốn để sẵn bên mạn hoặc trong
khoang tàu lớn, chèo luồn vào phía sau dải cát Thai Dương thượng, Thai
Dương hạ, quyết đánh úp các đồn của quân ta. Đạo quân do Trương Văn Đễ chỉ
huy phản công, nhưng bị kém thế, phải rút chạy. Quân Pháp lại tấn công dữ
dội, bằng đại bác và quân đánh bộ. Kho đạn trên đồn Hạp Châu lại bị nổ
(51)!
Các tướng Lê
Sỹ, Lê Chuẩn, Lâm Hoành (người Quảng Trị) và Nguyễn Trung đều tử trận.
Quân ta bị vỡ (55). Thành tŕ tại Thuận An hoàn toàn thất thủ.
“Vua [Hiệp
Hoà đă thật sự chủ “hoà”] nghe tin báo, lập tức sai thượng thư Bộ Lại
là Nguyễn Trọng Hợp đến ngay thành Trấn Hải bàn hoà; lại [ra] sắc [dụ] cho
các đồn sở từ Lộ Châu trở lên [gồm 13 đồn] đều phải canh giữ pḥng thủ cho
nghiêm. Nếu tàu nước ấy có đến đồn nào, tức phải treo cờ trắng [:đầu hàng],
không được bắn khiêu khích.
Lúc bấy giờ,
[thành luỹ] tỉnh cũ, tỉnh mới ở Hải Dương cũng bị mất, [nay mới] chợt báo
tin đến, cho nên việc nghị “hoà” càng quyết định” (55)
.
Trần Tiễn
Thành liền có vai tṛ của ông ta!
“Đúng vào
lúc đó, quân đội của đô đốc Courbet đổ bộ ở Thuận An (tháng 08.1883).
Trần Tiễn Thành được vời về triều để thảo luận về điều kiện nghị hoà [“”]
và được giao nhiệm vụ đi yêu cầu giám mục Caspar xin nhà cầm quyền Pháp
đ́nh chiến” (56) .
Giám mục
Maria Anton Louis Caspar Lộc, sinh ngày 23.03.1841 tại Obernai, vùng hạ
sông Rhin, tại Pháp. Y đă từng có mặt tại Sài G̣n từ tháng hai 1865, với
trách nhiệm “cha giáo” Chủng viện Lái Thiêu, rồi làm giám đốc trường
đào tạo thầy giảng.
Caspar được
tấn phong giám mục vào ngày 24.08.1880. Sau đó ít ngày, đầu tháng chín, y
lên đường ra Huế (57).
Đêm ấy,
Nguyễn Trọng Hợp cùng với cố đạo Pháp Caspar (vốn thường trú tại khu vực
nhà thờ Kim Long, Huế), đi trên chiếc thuyền, treo cờ trắng đầu hàng nhục
nhă, có viết chữ Âu (58): “Miễn chiến”! Để giặc Pháp khỏi bắn vào thuyền
v́ bóng đêm khoả lấp, không trông thấy rơ cờ trắng đầu hàng, Nguyễn Trọng
Hợp sai quân lính liên tục đốt lửa trên thuyền để soi chiếu ánh sáng vào
lá cờ trắng ấy (58).
“Khâm sai
Bắc Ḱ toàn quyền đại thần của nước Pháp là Hà A Mang [Harmand] cũng
đưa thư đến bàn hoà” (59) .
Mặc dù “hoà”
ước mới gồm hai mươi bảy khoản chưa
kí kết, phía Harmand, Courbet, De Champeaux đă yêu sách tức khắc:
+++ Triệt hạ ngay các đồn pḥng thủ từ cửa
Thuận lên đến kinh thành, tất cả là 12 (hoặc 13) đồn luỹ.
+++ Triệt bỏ những băi chông cắm ở cửa
sông.
+++ Trả lại cho Pháp hai chiếc tàu mà Pháp
đă trao cho triều Tự Đức hồi kí kết “hoà” ước Giáp tuất 1874 và cả chiếc
tàu Scorpion, bấy giờ quân Đại Nam đă chiếm được của Françis Garnier
(1873) (60).
Nguyễn Trọng
Hợp đồng thuận!
“Vua [Hiệp
Hoà] sai triệu gia hiệp biện đại học sĩ hưu trí là Trần Đ́nh Túc ([quê
tại Quảng Trị], ở xă Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên), cho lănh
thượng thư Bộ Lễ sung chức toàn quyền đại thần; [đồng thời sai phái]
thượng thư Bộ Lại, [nay vừa mới] sung Cơ mật viện đại thần là Nguyễn Trọng
Hợp, làm phó, đến Sứ quán [Pháp] bàn định “hoà” ước” (61).
Ngoài ra, tham biện Nội các Hoàng Hữu Thường c̣n được bổ sung làm tham
biện định “hoà” ước mới, chuyên lo việc văn thư. Về sau, “có nhiều điều
khoản phải bàn lại, do [Nguyễn] Trọng Hợp một ḿnh làm việc, [c̣n Trần]
Đ́nh Túc cho về hưu trí như cũ” (62) .
Đến như Trần
Đ́nh Túc, một viên đại quan vốn chủ “ḥa”, cũng nhận thấy không kham chịu
nổi “ḥa” ước mới (Harmand – Trần Đ́nh Túc), nhất là sau khi kí, Harmand
c̣n lấn bức thêm.
Lúc đó, nghe
tin thành cũ, thành mới Hải Dương thất thủ, lại thành Trấn Hải tại Thuận
An cũng không giữ được, bị vỡ, quân tan, sinh viên Quốc tử giám liền t́nh
nguyện đi đánh giặc. Quan phụ trách giảng dạy do Nguyễn Liên dẫn đầu đem ư
chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của sinh viên tâu tŕnh lên vua (63).
Vua Hiệp Hoà bảo với giọng điệu sĩ diện hăo mặc dù trong thâm tâm chỉ mong
một việc đầu hàng, chịu cho giặc “bảo hộ”:
“Quan cùng các học tṛ ở Giám
muốn ném bút đi đánh giặc, rơ có ḷng siêng việc vua, giận quân thù,
nhưng nay chúng đă xin hoà, việc đă được bớt, bọn ngươi cứ học tập như cũ”
(63)!!! Trong lúc cả nước đau đớn, tủi nhục, Hiệp Hoà lại thiên vị,
“thăng cho viên ở Anh Danh là Lê Văn Phú làm quản cơ. [Lê] Văn Phú là
thân thuộc phi tần nhà vua, cho nên cho thăng [chức], nhưng cho ở nha,
chiểu hàm cho ăn lương” (41)!!!
Riêng đoàn
quân đồn Hoà Duân (Hoà Quân), gồm khoảng bảy trăm viên lính, vốn do tham
biện Ông Ích Khiêm chỉ huy, khi rút quân lên kinh thành Huế, đến bến đ̣
Nam Phố, tiếng trống vẫn chưa thôi (64)! Đó là tiếng trống phá phách, bỡn
cợt, chán chê, bất măn, ê chề, giận dỗi… Đúng là tướng nào quân ấy! Ông
phải đổi sang làm biện lí Bộ Lễ, giao quân lại cho tướng quân Tôn Thất
Thuyết quản lí (64).
Tất cả hệ
thống đồn từ cửa biển Thuận An lên dọc tuyến sông Hương đều được sắc dụ
của Hiệp Hoà, buộc rút hết biền binh, kể cả các khẩu đại pháo, cũng bị chở
đi chỗ khác (65). Cửa kinh đô bao nhiêu năm xây dựng hệ thống pḥng thủ
đến nay hoàn toàn bị buộc phải bỏ ngỏ! Triều đ́nh Hiệp Hoà đă thảm bại,
cam chịu đầu hàng một cách nhục nhă!
“Hoà” ước Quư
mùi 1883 là một nỗi đau xót, nhục nhă nhất trong các “hoà” ước, thừa nhận
sự “bảo hộ” với chế độ công sứ của Pháp bên cạnh quan tỉnh của ta ở Bắc Ḱ
và ở cả ba tỉnh Nam Đàng Ngoài Thanh – Nghệ – Tĩnh, lại mất đứt thêm một
tỉnh khác ở phía nam (B́nh Thuận bị sáp nhập vào Nam Ḱ, vốn là thuộc địa
Pháp) (66). “Hoà” ước Quư mùi 1883 c̣n quy định, triều đ́nh Đại Nam
có quyền hạn rộng hơn một ít trên các tỉnh c̣n lại, từ Khánh Hoà đến Quảng
B́nh, nhưng triều đ́nh vẫn lệ thuộc vào tổng trú sứ Pháp tại Huế hầu như
về mọi mặt (66)!
Chưa bao giờ
hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đau xót hơn! Thế là chiến
thuật lấy tấn công làm pḥng thủ, nói rơ hơn là quyết tấn công các sào
huyệt Pháp tại Bắc Ḱ để pḥng thủ kinh đô Huế, đă thất bại, mặc dù
hai đại thần chủ chiến của Viện Cơ mật đă biết trước ư đồ của thực dân
Pháp, chúng sẽ tấn kích cửa biển Thuận An để uy hiếp, buộc triều đ́nh kí
“hoà” ước mới!
Đến khi Thuận
An thất thủ, Trần Đ́nh Túc và Nguyễn Trọng Hợp đă phải kí “Hoà” ước Quư
mùi 1883 gồm hai mươi bảy điều khoản với Harmand tại Sứ quán Pháp bên bờ
sông Hương, tin Hải Dương thất thủ lại ập vào, kế đến mới là tin thắng
trận ở phủ Hoài và huyện Đan Phượng được đưa tới kinh đô.
Vua Hiệp Hoà
nghe tin thắng trận đó, “có vẻ buồn, nói rằng: “Lang sói đương nhông
nháo, bắt làm ǵ đám cầy cáo”, xem tờ tâu cũng không biết là mừng” (67).
Nhà vua giao tờ tâu báo tiệp “cho Viện Cơ mật và Bộ Binh khu xử. Quan
ở Viện, Bộ tâu rằng: “Quân thứ ấy có thắng trận như thế, cố nhiên phải
khen thưởng, nhưng nay t́nh thế đă khác, sẽ đợi nghĩ định sau. Vua nghe
theo” (67) . Lúc này, trong các quan ở Viện Cơ mật và Bộ Binh,
kẻ lại chiếm ưu thế chính là Trần Tiễn Thành, và bên cạnh ông ta, c̣n có
một kẻ chủ “hoà” khác, ấy là thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp, người mới
được Hiệp Hoà bổ sung vào Viện Cơ mật (61)!
5
“HOÀ” ƯỚC
QUƯ MÙI 1883 (68)
“Giữa những
người kí tên sau đây:
Một bên là J.
Harmand, tổng uỷ, (đại diện ngoại giao cho nước Pháp cộng hoà (*)), nhân
danh nước Pháp;
Một bên là
hiệp biện đại học sĩ Trần Đ́nh Túc (trưởng đoàn ngoại giao) và Lại bộ
thượng thư Nguyễn Trọng Hợp (phó đoàn), nhân danh triều đ́nh nước Đại Nam;
Đă cùng nhau
thoả thuận như sau:
+ Điều khoản
I: Nước Nam thừa nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp trong các mối quan
hệ về phương diện pháp luật, ngoại giao châu Âu, nghĩa là nước Pháp sẽ chủ
tŕ mọi việc giao thiệp của nước Nam với tất cả các nước khác, bao gồm cả
nước Tàu. Triều đ́nh nước Nam sẽ chỉ giao thiệp về ngoại giao với các nước
nói trên qua sự môi giới của nước Pháp mà thôi.
+ Điều khoản
II: Tỉnh B́nh Thuận sáp nhập vào xứ Nam Ḱ của Pháp.
+ Điều khoản
III: Một đội binh Pháp chiếm đóng thường xuyên dăy núi đèo Ngang… [và] từ
dăy núi này chạy ta đến mũi đất Vũng Chùa; binh Pháp cũng đóng các đồn
Thuận An và các đồn ở cửa sông Huế. Các đồn này sẽ được xây dựng lại tuỳ
theo ư muốn cuả các nhà cầm quyền Pháp.
+ Điều khoản
IV: Triều đ́nh nước Nam sẽ gọi về ngay các đạo quân đă phái ra Bắc Ḱ để
thực thi ḥa b́nh.
+ Điều khoản
V: Triều đ́nh nước Nam sẽ ra lệnh cho quan lại ở Bắc Ḱ trở lại lị sở, bổ
nhiệm các quan lại mới để điền vào những nơi khuyết, và sẽ lâm thời công
nhận những sự bổ nhiệm của nhà cầm quyền Pháp sau khi đă có sự thoả hiệp
của đôi bên.
+ Điều khoản
VI: Quan lại các tỉnh từ đường biên phía bắc tỉnh B́nh Thuận ra đến đường
biên Bắc Ḱ, lấy đèo Ngang làm giới hạn, sẽ tiếp tục do triều đ́nh cai trị
như xưa, không có bất cứ một sự kiểm soát nào của nước Pháp, trừ những
công việc thuộc về thương chính hay công chính, và nói chung là những công
việc cần có một sự chủ trương duy nhất và khả năng của các nhân viên kĩ
thuật Âu châu.
+ Điều khoản
VII: Triều đ́nh nước Nam sẽ tuyên bố mở ra cho thương mại châu Âu, ngoài
cửa biển Quy Nhơn, c̣n có các cửa biển Đà Nẵng và Xuân Đài (Phú Yên). Sau
này, sẽ thảo luận xem có nên mở thêm các cửa biển khác nữa không, để có
lợi cho cả hai nước; và cũng sẽ định giới hạn cho các khu nhượng địa của
Pháp ở những cửa biển đă mở. Nước Pháp sẽ đặt ở đấy những nhân viên dưới
quyền trú sứ Pháp tại Huế…
+ Điều khoản
VIII: Nước Pháp có thể dựng một hải đăng ở mũi đất Varella hoặc ở mũi đất
Padaran hay Poulo Cécir, tuỳ theo lời phúc bẩm của các sĩ quan và kĩ sư
Pháp.
+ Điều khoản
IX: Sau khi đôi bên thoả hiệp, và phí tổn chịu chung, chính phủ nước Nam
sẽ tu sửa lại con đường lớn từ Hà Nội đến Sài G̣n, quản lí sao cho tốt để
xe cộ đi lại được. Nước Pháp sẽ cung cấp những kĩ sư để phụ trách những
công việc như cầu cống, đường hầm.
+ Điều khoản
X: Một đường dây điện báo sẽ đặt trên con đường lớn này, rồi do nhân viên
của nước Pháp phụ trách. Một phần thuế thu được sẽ giao cho chính phủ nước
Nam, v́ đă nhượng đất đai để làm các trạm điện báo.
+ Điều khoản
XI: Ở Huế sẽ có một trú sứ là một vị quan cao cấp. Trú sứ không can thiệp
vào những công việc nội trị của địa phương Huế, nhưng sẽ là người đại diện
chính phủ bảo hộ, đặt dưới quyền kiểm tra của tổng uỷ viên chính phủ [nước]
Pháp cộng hoà; vị này sẽ chủ tŕ những công việc ngoại giao của vương quốc
An Nam, nhưng có thể sẽ uỷ quyền toàn bộ hoặc một phần quyền bính cho trú
sứ ở Huế.
Trú sứ Pháp
tại Huế sẽ được quyền một ḿnh vào diện kiến vua nước Nam, nhà vua không
thể từ chối không tiếp, nếu không có lí do chính đáng.
+ Điều khoản
XII: Ở Bắc Ḱ sẽ có một trú sứ ở Hà Nội, một ở Hải Pḥng, một ở các thành
phố duyên hải sẽ được thiết lập sau, và một tại tỉnh lị mỗi tỉnh lớn. Ngay
sau khi thấy có nhu cầu tại các tỉnh lị ở các tỉnh nhỏ, cũng sẽ đặt những
viên chức người Pháp thuộc quyền quan trú sứ tỉnh lớn, mà tỉnh nhỏ ấy phụ
thuộc theo khu vực hành chính trong xứ.
+ Điều khoản
XIII: Các quan trú sứ hoặc phó sứ sẽ có những người giúp việc và những
người cộng tác cần thiết và được bảo vệ bởi một toán lính Pháp hoặc bản xứ
đủ cho họ được tuyệt đối an toàn.
+ Điều khoản
XIV: Các quan trú sứ sẽ tránh không can thiệp sâu vào công việc nội trị
các tỉnh. Các quan lại bản xứ sẽ tiếp tục cai trị và điều hành dưới quyền
kiểm soát các quan trú sứ, nhưng họ sẽ có thể bị thay thế bởi người khác
theo yêu cầu của các nhà cầm quyền Pháp nếu họ tỏ ra có điều không tốt với
quan Pháp.
+ Điều khoản
XV: Các quan lại, viên chức Pháp thuộc các công sở như bưu điện, công khố,
thương chính, công chính, giáo dục Pháp, nếu có tư tŕnh ǵ với nhà cầm
quyền nước Nam th́ sẽ chỉ do các quan trú sứ chuyển đạt.
+ Điều khoản
XVI: Các quan trú sứ xét xử các án kiện về dân sự và thương mại của người
châu Âu tranh chấp với người bản xứ, của người bản xứ tranh chấp với người
các nước châu Á muốn hưởng sự bảo hộ của người Pháp. Nếu không đồng ư với
các án xử của các quan trú sứ th́ khiếu nại ở Sài G̣n.
+ Điều khoản
XVII: Các viên trú sứ sẽ kiểm soát việc trị an ở các đô thị, và quyền
kiểm soát của họ đối với các quan chức bản xứ sẽ mở rộng ra theo sự phát
triển của các đô thị đó.
+ Điều khoản
XVIII: Các viên trú sứ với sự giúp đỡ của quan bố chánh, sẽ tập trung
trong tay việc thuế má mà họ kiểm soát việc thu chi.
+ Điều khoản
XIX: Việc thương chính được sắp đặt lại sẽ được hoàn toàn giao cho các
quan cai trị Pháp. Chỉ có các trạm thuế cửa biển và [trạm thuế] đường biên
giới sẽ được đặt khắp các nơi cần thiết. Về ngạch thương chính do các quan
binh ở Bắc Ḱ đặt ra th́ không được kêu nài ǵ cả.
+ Điều khoản
XX: Công dân hay dân thuộc quốc tịch Pháp sẽ được hưởng tự do hoàn toàn về
nhân thân và tài sản của họ trong toàn xứ Bắc Ḱ và tại các cửa biển khai
thương ở Trung Ḱ. Ở Bắc Ḱ và trong giới hạn các cửa biển khai thương ở
xứ Trung Ḱ, họ sẽ có thể tự do đi lại, cư trú và sở hữu tài sản. Tất cả
những người ngoại quốc xin được hưởng sự bảo hộ của Pháp thường xuyên hoặc
tạm thời cũng sẽ được như vậy.
+ Điều khoản
XXI: Những người v́ mục đích khoa học hay v́ mục đích nào khác mà muốn đi
du lịch trong nước Nam sẽ chỉ được phép qua môi giới của trú sứ Pháp ở Huế,
Pháp suư ở Nam Ḱ hay là tổng uỷ viên chính phủ Pháp ở Bắc Ḱ. Các vị này
sẽ cấp cho họ những giấy thông hành, rồi họ tŕnh triều đ́nh An Nam phê
chiếu.
+ Điều khoản
XXII: Nước Pháp sẽ đóng những đồn binh dọc theo sông Hồng khi xét thấy sự
đề pḥng đó là cần thiết để bảo đảm cho sự tự do giao thông trên sông.
Nước Pháp cũng sẽ có thể lập những đồn binh vĩnh viễn ở khắp những nơi mà
xét thấy có lợi.
+ Điều khoản
XXIII: Từ nay về sau, nước Pháp cam đoan bảo đảm sự vẹn toàn của các xứ
của nhà vua An Nam, bảo vệ nhà vua chống lại mọi cuộc ngoại xâm từ bên
ngoài, hay các cuộc nội loạn và bênh vực những điều yêu sách chính đáng
của ngài với người nước ngoài.
Nước Pháp một
ḿnh cam đoan đánh đuổi ra khỏi Bắc Ḱ những đội quân được biết tới dưới
cái tên “Quân Cờ đen” và bảo đảm bằng những phương sách của ḿnh sự trị an
và tự do buôn bán trên sông Hồng.
Vua nước Nam
sẽ tiếp tục cai trị các xứ của ḿnh như trước, trừ những điều hạn chế do
hiệp ước này quy định.
+ Điều khoản
XXIV: Nước Pháp sẽ cung cấp cho vua nước Nam tất cả những người huấn luyện,
kĩ sư, bác học, sĩ quan v.v… mà nhà vua sẽ cần dùng.
+ Điều khoản
XXV: Nước Pháp sẽ coi mọi người An Nam, ở mọi nơi, ở trong cũng như ở
ngoài nước, như những người được bảo hộ đích thực của ḿnh.
+ Điều khoản
XXVI: Những món nợ hiện nay của nước Nam đối với nước Pháp sẽ được coi như
đă thanh toán, do việc cắt nhượng tỉnh B́nh Thuận.
+ Điều khoản
XXVII: Sẽ có những cuộc bàn bạc để quyết định số tiền giao cho triều đ́nh
nước Nam trong số quan thuế cước phí điện tín v.v… trong nước, số quan
thuế ở Bắc Ḱ và thuế vế các cuộc chuyên mại độc quyền, như cơ sở kĩ nghệ
sẽ được phép lập ở Bắc Ḱ. Món tiền trích giao ở số thuế thu đó không được
dưới hai triệu quan tiền Pháp (franc).
Đồng bạc Mễ
Tây Cơ (Mexique) và các tiền tệ bằng bạc của xứ Nam Ḱ thuộc Pháp sẽ cùng
với các tiền tệ của nước Nam đồng thời cưỡng bách lưu hành trên khắp vương
quốc.
Bản hiệp ước
này sẽ được tŕnh lên giám quốc nước Pháp cộng hoà và đức hoàng đế nước
Nam chuẩn y. Việc xác nhận và hỗ giao sẽ được trao đổi càng sớm càng tốt.
Nước Pháp và nước Nam bổ nhiệm các vị đại diện ngoại giao, sẽ họp tại Huế
để xem xét và định ra mọi chi tiết. Các vị đại diện ngoại giao đó sẽ
nghiên cứu trong một cuộc họp chế độ thương mại có lợi nhất cho hai nước,
cũng như quy chế quan thuế lấy điều khoản XIX trên đây làm căn bản, và
những vấn đề thuộc về độc quyền ở Bắc Ḱ, về các nhượng địa để khai mỏ, về
chuyên chở tàu thuyền, về ruộng muối và các ngành công nghiệp…”.
“Hoà” ước này được
kí kết vào ngày hai mươi ba (23), tháng bảy (07), năm Tự Đức thứ ba mươi
sáu (36) (vẫn c̣n thuộc niên hiệu tiên đế), Quư mùi (25.08.1883)
.
Hết
tệp 7 (phân đoạn 1, truyện kí thứ 10)
Khởi viết truyện
thứ mười này vào lúc khoảng 07 giờ
ngày 01.01.2003.
Viết
đến ḍng chữ này lúc 18 giờ 05 phút,
ngày
mùng 04.01.2003 (02.12 Nh. ngọ HB.3)
tại
thành phố Hồ Chí Minh.
TRẦN
XUÂN AN
(27) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
219.
(28) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
214; : GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp.HCM. tái bản,
2001, tr. 421 – 426.
(29) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 216
– 217: “Mùa thu, tháng bảy, ban rơ điển lễ tấn tôn Khiêm hoàng hậu [Vũ thị,
vợ vua Tự Đức] và hoàng thái phi [Trương thị, mẹ vua Hiệp Hoà]… […] … Vua
[Hiệp Hoà] bèn sắc sai các quan bàn kĩ thế nào cho hợp lễ chế và đem bàn
thêm nghi chế tấn tôn lệnh từ [:mẹ của vua Hiệp Hoà]. Đến nay, Tôn nhân,
hoàng thân, đ́nh thần xem xét điển lễ cũ [đời Tống Tấn vương Quang Nghĩa,
Diên An quận vương Dong, Triết Tông với cách lập hoàng thái hậu, hoàng
thái phi… ]; và xét cả điển trước của bản triều [đời Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị về việc tấn tôn hậu, phi, thái hậu, thái phi]; châm chước nghĩ
định Trung phi [Vũ thị, vợ vua Tự Đức], xin lấy mĩ tự tên cung, tôn làm
Khiêm hoàng hậu [:hoàng hậu của Khiêm lăng (lăng Tự Đức)], tôn lệnh từ th́
tôn làm hoàng thái phi… […] … Vua [Hiệp Hoà] lại sai Tuy Lư vương cùng Nội
các, Sử quán, Quốc tử [giám] hội đồng xét lại cho kĩ, cho là các lẽ bàn
định ở trên, so với t́nh lí, đều đă thoả hợp… […] … Vua [Hiệp Hoà] đem tập
tâu ấy tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, bèn cho thi hành”.
(30) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
219.
(31) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 220
– 221.
(32) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
222.
(33) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
222.
(34) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223.
(35) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223.
(36) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 161
– 162.
(37) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.),
Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 425. Về cuốn sách này, chúng tôi đă phê
phán ở các chú thích trước, và phê phán cụ thể hơn ở một cuốn sách của tôi.
Xin xem: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa,
tưởng không hơn được”, khảo luận và phê b́nh sử học, sắp xuất bản (2002).
(38) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
221.
(39) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
221.
(40) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
222.
(41) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
225, 239.
(42) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
219.
(43) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr.
386, 388, 425. ª “C̣n ở tại Huế, sứ Pháp là Rayna [Rheinart] thuyết khách
cho đến đỗi triều đ́nh đă nhận về nguyên tắc là cần làm thêm một bản phụ
lục cho hoà ước 1874, trong phụ lục này sẽ ghi chữ “bảo hộ” vào. Sở dĩ
triều đ́nh chưa kí với Pháp một bản hoà ước mới là v́, trong thời gian ấy,
quân đội nhà Thanh vào Việt Bắc và Lư Hồng Chương đă sai sứ Thanh [:Đường
Đ́nh Canh] đến tận Huế dưới danh nghĩa một đoàn thương mại” (nguyên văn
của GS. Trần Văn Giàu, tr. 386). ª Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Duclerc gửi
bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Pháp Jauréguiberry, ngày 26.09.1882: “Hồi
đầu tháng bảy, chính phủ Nam Ḱ (Pháp) có lúc tưởng rằng đă có thể vượt
qua những khó khăn hiện tại. Triều đ́nh Huế, có một lúc có giận dữ v́ ta
lấy Hà Nội, nay đă có thái độ hoà nhượng hơn, và ta tin rằng họ có thể kí
một hoà ước phụ thuộc cho hoà ước 1874 [Giáp tuất], cương quyết hơn và rơ
ràng hơn, đặt nước An Nam dưới sự bảo hộ của ta, trong những điều kiện na
ná với xứ Tunysie. Th́nh ĺnh, một chuyển hướng xảy ra trong trí của những
cố vấn vua Tự Đức, họ tuyệt đối không nhận những đề nghị của ta nữa. Cũng
như ngài, tôi nghĩ rằng sở dĩ như thế là v́ ảnh hưởng của Trung Quốc… Cho
nên cũng như ngài, tôi đồng ư là chính phủ Pháp phải có một thái độ cương
quyết và quyết định để phá những mưu mô có thể đem lại những kết quả tai
hại. Vả lại, từ lúc cuộc viễn chinh này bắt đầu th́ bản bộ [Ngoại giao
Pháp] đă theo một đường lối giống hẳn như đường lối bây giờ” (dẫn theo,
tr. 386). ª “Ngoại giao giữa ta và Pháp như thế là đoạn tuyệt; nhưng theo
chỉ thị của Paris, Harmand cũng đă t́m cách báo cho Tự Đức biết là Pháp
nhất định sẽ đ̣i sửa đổi hoà ước 1874, lập hoà ước mới với 27 khoản, đ̣i
lập hẳn “bảo hộ”, quyền ngoại giao, thương chính, thuế vụ và quyền quân sự
sẽ hoàn toàn về tay Pháp” (nguyên văn của GS. Trần Văn Giàu, tr. 425).
(44) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
226; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 422 – 424.
(45) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 232
– 233.
(46) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
226.
(47) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223.
(48) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223.
(49) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223.
(50) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
224.
(51) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
223; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 430 – 433; Phan Trần Chúc, Vua
Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Kư, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản,
1995, tr. 23 – 24.
(52) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
224.
(53) Dẫn theo CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản,
2001, tr. 422.
(54) Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi (VHN.),
Nxb. Chính Kư, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 24. Về cuốn
sách này, chúng tôi đă phê phán ở các chú thích trước.
(55) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
224.
(56) Nguyễn Đắc Xuân (biên soạn), Phụ
chính đại thần Trần Tiễn Thành (PCĐT. Tr.TTh.), (trong đó có in lại bài
viết của Đào Duy Anh trên Tập san Những người bạn cố đô Huế [Bulletin des
amis du vieux Huế (BAVH.), linh mục Pháp Cadière làm chủ bút, số 4 – 6/
1944]), Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 71 – 72.
(57) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang,
sách in vi tính, tập 1, tr. 247 – 248, 282 – 283.
(58) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
224; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện
Sử học, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 125: “… quân Pháp trông xa không
phân biệt được, bắn ra như mưa. [Nguyễn] Trọng Hợp bèn sai người thông
dịch xé chăn vải trắng viết chữ “Âu”, đốt vội hoá vật trong thuyền để tỏ
bảo. Quân Pháp, từ trong lửa sáng phảng phất, thấy hiệu cờ, tiếng pháo bèn
thôi; rồi ông Hợp lên tàu thượng suư, cùng với viên đô thống Pháp ra mắt…
[…] … Bèn đưa Hợp làm phó toàn quyền cùng với chánh toàn quyền là Trần
Đ́nh Túc đều tới Sứ quán giảng định hoà ước…” (sđd., tr. 125).
(59) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224
– 225.
(60) VHN., Nxb. Chính Kư, Hà Nội, 1951,
Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, sđd., tr. 32.
(61) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224
– 225.
(62) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
225.
(63) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
225.
(64) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
225.
(65) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr.
225.
(66) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.),
Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 534 – 535; xem thêm “hoà” ước 1883.
(67) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225
– 226.
(68) Theo một số tư liệu trong “Phạm Thận
Duật, sự nghiệp văn hóa, sứ mệnh cần vương”, Hội KHLS.VN xb., 1997, tr.
356 – 361. Đây là một cuốn sách có nhiều chi tiết xuyên tạc, bịa đặt đầy
ác ư (trong bài của PGS. Chương Thâu) với những cái gọi là tư liệu, không
rơ xuất xứ, không được công chứng, chưa hề giám định, do đó, không thể có
giá trị sử học. Xin xem thêm chú thích (73) ở truyện thứ chín của bộ tiểu
thuyết này.
Chú thích xong lúc
11 giờ 17 phút,
ngày 15.01.2003
(15.01 Q. mùi, năm
thứ hai công nguyên Ḥa B́nh [:HB.3]).
TRẦN XUÂN AN
Cước chú
của bản “HOÀ” ƯỚC QUƯ MÙI 1883:
Hết
tệp 8
(phân đoạn
2)
Xin xem tiếp
tệp 9
(phân đoạn
3),
truyện kí 10