TRẦN
XUÂN AN
NGUYỄN
VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TỪ XƯA,
TƯỞNG
KHÔNG HƠN ĐƯỢC”
KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC
Nhà Xuất bản
2003
PHỤ LỤC:
ĐẠI NAM THỰC LỤC, CHÍNH BIÊN, IV, V,VI
(trích đoạn nguyên văn)
1. Nguyễn Văn Tường cùng đồng sự đi kinh lí huyện Thành Hóa, Quảng
Trị, tháng 01 Giáp tí (tháng 02. 1864):
“Sai hữu thị lang Bộ Lại là Thân
Văn Nhiếp, biện lư Bộ Binh là Nguyễn Văn Tường đi các châu tổng trong huyện
Thành Hóa, đạo Quảng Trị, để thăm xét dân t́nh, địa thế. Bọn Văn Nhiếp xin
trích phái 1 quản cơ, 3 suất đội, và 150 tên biền binh ở cơ Định Man đem khí
giới đầy đủ đi theo cho trọng sự thể. Và xin mua theo thị giá các thứ vải
hoa màu của Tây dương và sa nam, may chế quần áo đều 20 bộ, chè bắc hạng to
cánh 5 cân, rượu 30, 40 cân, đem ban cấp cho những người ti mục dân thổ, để
tuyên bảo đức ư của Triều đ́nh. Vua y cho”.
(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 51).
2. Nguyễn Văn Tường là vị quan giỏi được chọn làm phủ doăn để hiểu
bảo giáo dân Thiên Chúa giáo tại kinh đô Huế, tháng 6 Giáp tí (tháng
7.1864):
“Vua cho là hiện nay dân lương,
đạo khích nhau, kinh ấp Thừa Thiên, Nghệ An hạt lớn, cần được người giỏi để
hiểu bảo cho dân yên. Bèn cho Ngụy Khắc Đản (biện lư) lănh bổ bố chính sứ
Nghệ An (nguyên bố chánh là Đoàn Văn Hội đổi vào làm biện lư Bộ Binh),
Nguyễn Văn Tường (biện lư) lănh chức phủ doăn (nguyên phủ doăn là Trần Tiến
Thọ can dân kiện ở ngoài đợi xét)”.
(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 97 – 98).
3. Nguyễn Văn Tường xin trở về Thành Hóa (Cam Lộ) để làm tuyên phủ
sứ, đặt cơ sở để xây dựng Tân Sở, hậu lộ của kinh đô, tháng 02 Ất sửu (tháng
3.1865):
“… Tri huyện Thành Hóa tỉnh
Quảng Trị là Nguyễn Duy Tự, xin đem quân đi xếp đặt công việc ở bảo Trấn Lao
[…] [*].
Vua […] nhân bảo bộ thần rằng:
“Nguyễn Duy Tự không phải là người trọng hậu, tựa như người hiếu sự, ở nơi
biên viễn, mà không được như Nguyễn Văn Tường, th́ lợi chưa thấy, mà hại lại
sinh ra, hối làm sao kịp”. Bèn sai Thân Văn Nhiếp và Nguyễn Văn Tường thương
lượng suy xét. Văn Nhiếp xin cho Nguyễn Văn Tường và Trần Đ́nh Túc cáng đáng
việc ấy, và đặt thêm chức tuyên phủ sứ, chọn người thổ trước [**] để sửa
sang các công việc.
Nguyễn Văn Tường nói:
“Các châu ở Thành Hóa đất liền
với kinh đô, đời đời làm phên che giúp đỡ, sản vật có thể dùng được, dân
phong có thể sai khiến được, há nên cho là các châu nên ràng buộc qua loa.
C̣n về rừng sâu khí núi độc, th́ có người đă ở quen, chịu đựng nổi; dân Man
không biết ǵ, th́ lấy sự dễ dăi để thân cận họ; biên viễn là việc quan hệ,
th́ đă có viên đại viên để trông coi; lại khoan cho kỳ hạn, cho được tùy
nghi, sửa sang dần dần mới mong có thành hiệu. Các điều khoản như Thân Văn
Nhiếp đă tâu xin, tưởng công việc ngày nay, chủ chốt không qua các điều ấy.
Trần Đ́nh Túc chưa từng kinh lịch nơi đó nhưng địa thế, dân t́nh ở phủ hạt
ấy rất là biết rơ. Thần sinh trưởng ở đất ấy [Quảng Trị – TXA. ct.], trước
kia đă làm tri huyện ở đó [huyện Thành Hóa (Cam Lộ) – TXA. ct.] hơn 9 năm,
năm ngoái lại đi khám xét, th́ [tuy rằng – TXA. ct.] Trần Đ́nh Túc là người
giỏi giang quen việc, tôi [:các bề tôi – TXA. ct.] không thể theo kịp được,
nhưng về tục xứ ấy, t́nh người Man, th́ Đ́nh Túc chưa được hiểu rơ như thần.
Xin cho thần đổi chức tuyên phủ sứ, và kiêm cả chức khuyến nông; phàm công
việc nên làm ở bảo Trấn Lao, th́ đốc sức cho huyện viên sửa sang; c̣n ruộng
nương, việc trị thủy, đời sống của dân, điều lợi điều hại th́ hội cùng với
đạo thần [:các quan cai quản ở đạo, một đơn vị hành chính nhỏ thua một tỉnh
– TXA. ct.] thương lượng mà làm. Chức kinh doăn có khuyết, hoặc cho Trần
Đ́nh Túc kế thay, nhưng kiêm coi cả công việc doanh điền”.
Vua lại hỏi Trần Đ́nh Túc, Túc
cũng cho là phải, lại tự xin trông coi việc ấy tự trước đến sau.
Vua cho là chức kinh doăn và
doanh điền, đều chưa có công hiệu, cũng chưa rơ người có tài năng hay không,
bèn sai [Nguyễn Văn Tường – TXA. ct.] giữ chức cũ; Trần Đ́nh Túc th́ kiêm
biện cả nông điền thủy lợi ở Quảng Trị; c̣n các việc trọng đại về doanh điền
của phủ đạo nên cùng với Nguyễn Văn Tường thương lượng bàn định tâu lên, và
hội đồng lựa chọn viên quản đạo, viên huyện”.
(ĐNTL.CB., tập 30, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 171 – 172).
[*] Kí hiệu
[…]: các câu, chữ xét thấy không cần thiết, do đó, xin mạn phép lược bỏ. TXA.
[**] Người thổ
trước: người địa phương; từ đời tổ tiên, ḍng họ người đó đă bám trụ (khai
hoang, lập làng) ở địa phương ấy (thổ: đất; trước: bám trụ). Ở vùng bên
trong Đèo Ngang, người địa phương ở đấy là những người đă Nam tiến, sớm nhất
là từ sau khi Chế Mân dâng ba châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lí để làm sinh lễ
(1306, đầu thế kỉ XIII). TXA.
4. Nguyễn Văn Tường làm khâm phái, bang biện huyện Thành Hóa, bắt
đầu xây dựng Tân Sở và hệ thống thượng đạo, tháng 10 Bính dần (tháng
11.1866):
“Quản đạo Quảng Trị là Nguyễn
Quưnh dâng sớ bày tỏ mọi việc:
+++ Xin dời kinh đô;
+++ Xin đem các tỉnh lên
thượng du;
+++ Xin từ Nghệ An trở vào
Nam, khai khẩn miền thượng du, đem dân đến ở để mở mang.
Vua bảo rằng: “Dời các tỉnh
thành sợ nhiều việc hoang mang, hoặc làm dần dần, mới khỏi tiếng tăm, mà
khỏi chia quân đóng giữ; di dân không tiện; việc dựng kinh đô trước đă có
người nói, cũng ngại tiếng tăm, nhưng xét kỹ lúc có việc khác với lúc không
có việc; nước Trung Quốc có hai kinh đô, nhà Thanh đóng đô ở Yên kinh, lại
có Thịnh kinh là đất khởi nghiệp cũ, cũng là dự tính trước; nhưng động làm
tất nhiều lời nói không căn cứ, chưa hợp thời thế”.[…].
Quưnh lại xin đặt một đồn ở
Ba Xuân tỉnh Quảng Trị (cách Thành Hóa một ngày đường), phái quan quân đóng
ở đấy, chiêu tập dân đến ở. Quan Viện Cơ mật cho là chỗ ấy gần với nước Cao
Man, làm đồn đóng quân, không khỏi làm cho nước ấy nghi ngờ; xin xét t́nh
thế khuyên mộ dân, mở mang dần dần việc tiến đặt, đợi khi quả thực, dân t́nh
vui theo, người man không ngờ, mới nên đi kinh lư. Vua bảo rằng: “Trước
Nguyễn Văn Tường cũng xin làm việc ấy, tất phải làm theo lời nói; chuẩn cho
làm bang biện huyện Thành Hoá để làm việc, cấp cho ấn “khâm phái quan pḥng”,
cho được tự ư tư tâu”.
(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 86 – 87).
5. Nguyễn Văn Tường pḥng thủ trước việc thực dân Pháp xâm chiếm
đất hoang, tháng 11 Bính dần (tháng 12.1866):
“Bang biện Thành Hoá huyện vụ
là Nguyễn Văn Tường tâu nói: Đồn Trấn Lao hơi có lam chướng, nhưng đất rộng
dân thuần, không khác ǵ trung châu; lại nghe người Tây sắp phái người chiếm
đất hoang ở đằng sau núi, nên phải tính ngay; xem ra mạo lam chướng, vỡ đất
hoang […], th́ thế dễ đề pḥng, mà đất bỏ không ở biên giới, đều có chia giữ,
cũng là việc cần phải chiếm đất khai hoang trước. Vua y cho”.
(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 89).
6. Nguyễn Văn Tường tâu bày về công việc sơn pḥng đạo Cam Lộ,
trong đó có việc mở thượng đạo B́nh Định – Nghệ An, tháng 12 Bính dần (tháng
01.1867):
“Bang biện huyện Thành Hóa là
Nguyễn Văn Tường tâu bày 6 điều về việc sơn pḥng đạo Cam Lộ:
+++ Xin đem binh đội Thiên Thiện
và binh đồ tù các tỉnh đạo, đều phát đến cơ Định Man; chọn người cai quản,
cấp cho lương ăn để khai khẩn ruộng đất.
+++ Xin ở Sơn Tây tỉnh B́nh Định
và Trấn Ninh tỉnh Nghệ An, mở con đường ở thượng du thông đến Cam Lộ, để
chống giữ lẫn nhau.
+++ Mộ thêm cơ Định Man; các
quản suất, thưởng cho phẩm hàm; và gạo lương của lính mộ, xin theo lệ làm
việc; sau thành nền nếp, mỗi đội đặt làm một làng, ruộng vỡ hoang cho lấy
một nửa làm thế nghiệp, nửa sung làm ruộng công; có người t́nh nguyện mộ dân
làm nhà ở khai khẩn, th́ cấp thực cho tiền 10 quan, cho vay 35 quan, 3 năm
phải nộp trả lại, mộ được dân nội tịch cho được trừ, biên là chính mộ, đều
chiểu lệ thưởng hàm; và mua trâu giao người phu mộ chăn nuôi, để giúp việc
cày cấy.
+++ Quan kinh thu thuế hàng hóa
của người Kinh, người Man ở trường mậu dịch, xin đ́nh chỉ; nhưng phái 2
người thanh liêm, công bằng, lănh tiền công mua hàng hóa, cùng với người
Kinh, người Man trao đổi, lấy lăi giúp vào chi phí; và cho người Kinh lănh
trưng; thị trường chọn chỗ làm ra chỗ khác.
+++ Xin đem 2 tổng An Lạc, Bái
Ân thuộc huyện Do Linh, nửa tổng An Đôn thuộc huyện Đăng Xương và các phường
ở thượng nguyên [vốn – TXA. ct.] từ nơi khác đến ở, xin đổi lệ thuộc vào
huyện Thành Hoá; lần lượt dời làm huyện nha.
+++ Xin rút số lính cơ 2 phường
Bảng Sơn, Mai Lộc lại về ngạch hộ lấy gỗ, chịu nộp thuế gỗ, nhưng đem giản
binh 2 làng Cam Lộ, Châu Lạng cùng với dân có tên trong sổ đồn điền vào số
lính cơ Định Man c̣n thiếu.
Vua nghe theo”.
(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 103 – 104).
7. Bản sớ Nguyễn Văn Tường thay mặt sứ bộ vạch trần âm mưu xâm
chiếm lục tỉnh Nam ḱ của thực dân Pháp, tháng 3 Mậu th́n (tháng 4.1868):
“Lúc trước tướng Pháp bức lấy ba
tỉnh An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long, định lại điều ước mới, đem tờ thay đổi
đến bắt ta phải đóng ấn kí tên; rồi sau [vua – TXA. ct.] sai sứ cùng với hắn
sang Tây; đ́nh thần bàn lấy thượng thư Bộ Lễ Nguyễn Văn Phong làm chánh sứ,
tả thị lang Bộ Lễ [vốn – TXA. ct.] sung làm việc Nội các là Phan Đ́nh B́nh
sung làm phó sứ, bang biện huyện Thành Hoá gia hàm thị độc học sĩ là Nguyễn
Văn Tường sung làm bồi sứ, đến Gia Định bàn với tướng Pháp, đi đến thành Ba
Lê thương thuyết với triều đ́nh nước Pháp, (nói cho chuộc ba tỉnh trước; trả
lại trong [phạm vi – TXA. ct.] ba tỉnh, vẫn phải nhường trong [phạm vi – TXA.
ct.] ba tỉnh th́ tha hết tiền bồi thường), và đi khắp các nước Anh-cát-lợi,
I-pha-nho xem xét t́nh h́nh hiện tại của [các – TXA. ct.] nước ấy, về tâu
trả lời.
Đến nay Nguyễn Văn Tường đến
kinh, cùng với Văn Phong, Đ́nh B́nh, làm sớ nói:
“Ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên đă vào trong bụng người, h́nh cách thế cấm, ta đă khó giữ được, mà
người Tây cũng coi là vật ở trong túi; năm trước Dô-du-anh-đê [Drouyn de
Lhuys – TXA. ct.] thường cùng Phô-na [Bonard – TXA. ct.] từng đến yêu cầu ta
giao cho, gần đây Gia-lăng [De la Grandière – TXA. ct.] lại nói là sáu tỉnh
ấy không thể cắt đứt được, th́ mưu kế thôn tính, tưởng nước ấy cùng hội bàn
từ lâu; tỉnh Gia Định hiện nay, sửa sang nền nếp đă thành, nước ấy mới lấy
đấy làm thế trọng yếu; tuy ta có phí nhiều lời khúc chiết, [chúng – TXA.
ct.] đâu có chịu bỏ; nếu hư ứng nhất thời nhường giả ít nhiều, rồi lại bội
ước mà lấy, tưởng cũng như việc tỉnh Vĩnh Long trước mà thôi; huống chi sinh
việc cầu công là thói thường của quan ở biên giới [:biên thần; ở đây, chỉ
tướng Pháp tại Gia Định thuộc Pháp – TXA. ct.], mà ghen công tranh giỏi cũng
là ḷng người tất có; tướng Pháp mà c̣n ở lại Gia Định, th́ sứ thần đến
thẳng [Ba Lê (Paris) – TXA. ct.] làm việc quyền nghị, hoặc c̣n có cơ; nay
hắn đến [Ba Lê – TXA. ct.] trước, thêu dệt che đậy, nước ấy tất uỷ cho hắn
cùng nói với ta; nếu hắn vẫn có ḷng tốt th́ trong khi bàn nói ở Gia Định,
tưởng đă làm điều hay cho người, để ơn về ḿnh, đâu phải đợi đến nước ấy mà
để cho người khác cướp mất cái tốt ư? Xem thư hắn gửi đến, thứ nhất th́ nói
rằng: không phải nói nữa; thứ hai th́ nói rằng: có hắn ở đấy để cùng chước
định; th́ ư cự tuyệt nói kín đă rơ; về việc nhường trả đất đai, mười phần đă
khó dắt lời; nếu hoặc nước Tây đă lợi về đất đai, mà tha hết tiền bồi thường
th́ đường đường sứ bộ một nước mà cầu xin chỉ có 40 vạn đồng, không kể không
đủ tiền phí tổn, mà ư kiến nhỏ mọn đồn vang, e bị nước láng giềng ḍm dỏ; sự
t́nh đến thế thực đáng ngại.
Trộm nghĩ từ xưa nghị hoà, yếu
mà xin hoà th́ có; nước Pháp đối với ta, chiến thắng, đánh đâu được đấy, th́
khó ǵ mà cùng ta ước hẹn; bởi v́ vượt mấy lần biển mà đến, ở đất nước ta,
thấy sĩ dân ta phần nhiều đem ḷng ngờ vực, cho nên [Pháp – TXA. ct.] tất
muốn được khoán ước của ta, cho khiến nước ta tự nhận là trái, để [ta – TXA.
ct.] cô phụ [:bỏ mặc trong cô lập – TXA. ct.] tấm ḷng mong mỏi của sĩ dân;
không thế th́ hoà ước năm trước, rơ ràng biết là nhường nào, mà nay cho là
hư văn hết, lại cầu định lại; một lần đă là quá lắm, c̣n làm lại sao được;
thà rằng [cứ để cho Pháp – TXA. ct.] tạm bợ mà thành [:không có khoán ước –
TXA. ct.], mối lo [của Pháp, khi chúng chiếm cứ 3 tỉnh Miền Tây – TXA. ct.]
không ǵ lớn bằng [v́ dân lục tỉnh c̣n có cớ nổi dậy – TXA. ct.]; sao bằng
không thể giữ được th́ bỏ đi, mà lo toan về sau; kinh sư là nơi căn bản, đồn
luỹ đă kiên cố chưa? Khí giới đă sắc bén chưa? Chí quân ḷng dân đă hăng hái
chưa? Đường thuỷ, đường bộ pḥng bị đă chu đáo, bền vững chưa? Lương quân,
khí giới làm sao cho đầy đủ; hào mục, sĩ dân làm thế nào cho cố kết; chỗ nào
hiểm yếu mà phải giữ th́ phải canh giữ bằng cách nào cho tất bền vững? Hoặc
nên đặt viên quan chuyên trách để uỷ làm việc ấy, hoặc nên sai người địa
phương để cho am hiểu; phàm những việc ấy tưởng nên tính kỹ, cho thi hành
ngay, ngơ hầu khỏi ngại về sau; hoặc thế của ta c̣n có thể đợi, xin làm quốc
thư, cả thư của viên Thương bạc, mỗi thứ một bức đưa cho tướng ấy, xem nước
ấy trả lời thế nào mới được”.
Vua nghe lời, sai viên Thương
bạc viết thư cho tướng Pháp, rồi phát quốc thư đưa đến nước ấy; sai Nguyễn
Văn Tường về Cam Lộ làm việc như cũ”.
(ĐNTL.CB., tập 31, Nxb. KHXH.,
1974, tr. 202 – 204).
8. Tư tưởng chính trị nhân trị, đức trị đi đôi với việc tăng cường
quân đội của Nguyễn Văn Tường, trong việc xếp đặt ở Bắc ḱ, tháng 6 Canh ngọ
(tháng 7.1870):
“Nguyễn Văn Tường cũng tâu bày
công việc xếp đặt về sau, nói:
“Nam Kỳ, Bắc Kỳ là căn bản của
nước; theo sự thế trong Nam, nên tính thư thả; nên trước hết giữ Bắc Kỳ, cho
là việc cần; giữ phên giậu ở Cao, Lạng, Thái, Tuyên; giữ rừng biển ở đông,
tây, nam, bắc; Hà Nội ở giữa là nơi h́nh thế danh thắng, trong khi vô sự
phải rất chú ư, huống chi giặc trốn coi thường chiến tranh c̣n nhiều đứa lọt
lưới; giặc trước về Tầu, gián hoặc mến tiếc sào huyệt, chưa nên cho là việc
đă yên mà bỏ qua. Hiện nay kho tàng công tư đáng phải thương xót, sức lực
quân dân cũng gọi là đă kiệt, đợi đến lúc ấy sợ không có cách ǵ. Người đảm
đương công việc thường hay cẩu thả, h́nh như không để ư tới, bỗng chợt có
biến, chỉ lấy quân nhát, dân ngu tự gỡ; ai chịu cái lỗi làm cho dân nhọc,
dân oán? Muốn tâu bày thẳng tệ ấy th́ nói không thể xiết được; muốn dùng
pháp luật để sửa chữa, lại sợ không thể cậy được. Người xưa có nói: “Được
một quan huyện tốt, hơn là có 3 vạn quân tinh nhuệ”, là v́ không có chính sự
hà khắc th́ không có phản nghịch lớn. Xin chọn quan văn vơ người thanh liêm
tài giỏi, đông, tây, nam, bắc, mỗi tỉnh đều 2 người sung làm tổng đốc, đề
đốc, lại giao cho 500 quân tinh nhuệ (lính thú, mỗi tỉnh Đường Ngoài 500 tên,
một nửa lính kinh, một nửa lính Thanh, Nghệ); ở Hà Nội th́ lấy quan đại thần
có ḷng công bằng, trung trực, biết xếp đặt việc nước, uy vọng rơ rệt, như
quan Vơ hiển Nguyễn Tri Phương, sung làm kinh lược đại sứ, giao cho 2.000
quân tinh nhuệ để giúp việc đàn áp; các tỉnh ở Bắc Kỳ, việc chỉnh bờ cơi,
đốc suất việc binh, xét hỏi quan lại, vỗ yên nhân dân, đều ủy cho đại sứ
chuyên việc trông coi; quy chế cũ ở Hà Nội cũng nên theo thời sửa đổi. Như
thế, quan chính đính th́ dân chẳng ai dám chẳng chính đính, mà Trung châu
thế mạnh đủ để trấn áp bọn gian, các tỉnh ven biên giới mới được tính dần
công việc xếp đặt về sau; đợi một vài năm công việc được xong, quân có nên
rút, do quan đại sứ xét nghĩ thi hành. Không thế th́ đại binh ca hát trở về
chưa khỏi lại phải chú ư xếp đặt công việc lần nữa. Không dám nói hết, sợ
làm tăng sự ngày đêm lo nghĩ của hoàng thượng” ”.
(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 31 – 32).
9. Việt gian theo Thiên Chúa giáo mưu bắt Nguyễn Văn Tường để phá
hỏng việc Pháp trao trả 4 tỉnh Bắc ḱ, tháng 11 Quư dậu (tháng 12.1873):
“… Hoắc Đạo Sinh [Philastre –
TXA. ct.] thuận nghe, bèn định ngày mồng 8 chạy đến Hải Pḥng, dẹp trừ giặc
biển.
(Bỗng gặp 20 chiếc thuyền của
giặc biển về đậu ở Hải Pḥng. Quan thuyền ấy bảo phải nộp hết súng và khí
giới, tạm cho sống mà về. Hiện thu được súng bằng đồng 25 cỗ, c̣n súng đại
bác và thuốc nổ ch́m hết xuống sông, và các tàu ra biển đều bị tàu Đề Ta Di
[Decrès – TXA. ct.] đón chặn đốt giết).
[Khi tàu – TXA. ct.] tiến đến
thành tỉnh Hải Dương (trong thành hiện có viên quan một người Pháp và 30 tên
lính đóng giữ), nguỵ tổng đốc (tên là Trương, là người thợ rèn theo giáo,
nguyên là người An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct.] mới đặt) mưu bắt Văn
Tường để phá hỏng việc; Văn Tường ḍ biết, mật bàn với quan nước Pháp, giải
đưa xuống tàu giam lại, rồi tư ngay cho tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên đem quân đến
(Bắc Ninh 400 người, Hưng Yên 200 người) và triệu tập lính tỉnh tổng cộng
hơn 1.000 người để sai phái. Đến ngày 12, giao nhận tỉnh thành, tạm đặt quan
viên quản trị …”.
(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 356 – 357).
10. Nguyễn Văn Tường yêu cầu Pháp giải tán quân ngụy ở Bắc ḱ,
tháng 11 Quư dậu (tháng 12.1873):
“… Khi ấy Văn Tường và Hoắc Đạo
Sinh [Philastre – TXA. ct.] ở lại Hà Nội hội với quan Pháp bàn nghị. (Quan
Pháp 10 người, đều là bè lũ của An Nghiệp [Françis Garnier – TXA. ct.], muốn
cầu công tất cả, phần nhiều ngờ thống sát Hoắc Đạo Sinh nhận của hối lộ). 3
ngày mới định xong, liền triệu tập lính mộ (nguyên trước An Nghiệp mộ được
12.000 người, lẫn cả người đi lương, người đi đạo), cấp phát tiền lương,
nhân đấy kiểm thu khí giới, rồi cho giải tán …”.
(ĐNTL.CB., tập 32, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 359).
11. Nguyễn Văn Tường với ư
thức và hành động canh tân Đất nước: t́m mua và dâng tiến sách tiếng Tây,
tháng 4 Giáp tuất (tháng 5.1874):
“Sứ thần (Nguyễn Văn Tường,
Nguyễn Tăng Doăn) tiến 20 tập sách chữ Tây (4 tập Khung giang bát vật đồ chí,
3 tập Lăng sa kỳ đăng hiệu, 11 tập Nam Kỳ điều lệ, 1 tập thuế lệ, 1 tập binh
thuyền, trong đó có tập th́ tướng nước Pháp tặng, có tập hỏi mua mà quan Tây
không lấy tiền). Vua bảo rằng: “Đấy thực là có ḷng, có ích, giao Viện giữ
cẩn thận, đợi dịch rơ để tiện xem” ”.
(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 42).
12. Nguyễn Văn Tường với ư thức và hành động canh tân Đất nước:
tiến dâng súng Tây, t́m dùng người biết ngoại ngữ, người có tŕnh độ kĩ
thuật công nghệ, tháng 8 Giáp tuất (tháng 9.1874):
Nguyễn Văn Tường từ Gia Định về
xin đem súng Tây đă mua được cung tiến (1 khẩu súng lục, 500 viên đạn, theo
giá bạc tính thành tiền là 180 quan). Vua khen là nhậy lắm, có thể dùng được,
sắc cho giữ cẩn thận để pḥng sai phái. Lại đi Nam Kỳ lần này gọi được 5
người thông dịch, 7 người biết máy móc (đều là người Gia Định), tâu xin liệu
cấp lương để tiện sai phái. Vua y cho.
(Trước đă chuẩn cho thuê người
trong Nam và người nước Thanh biết thông dịch và biết máy móc để dùng, cho
nên mới gọi).
(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 111).
13. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường cải cách thuế ruộng đất trên
cơ sở v́ quyền lợi của dân nghèo canh tác ruộng công và v́ sự thống nhất
kinh tế – tài chính Nam – Bắc, tháng 7 Ất hợi (tháng 8.1875):
“Cho thuế ruộng công, tư, từ Hà
Tĩnh trở ra Bắc, chiểu theo thuế lệ từ Quảng B́nh trở vào Nam, trưng thu,
bắt đầu từ năm sau.
(Quảng B́nh trở vào Nam, ruộng
công, tư mỗi mẫu hạng nhất 40 thưng thóc, hạng nh́ 30 thưng, hạng ba 20
thưng. Mà Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công hạng nhất thóc thuế 80 thưng, hạng
nh́ 56 thưng, hạng ba 33 thưng; ruộng tư hạng nhất 26 thưng, hạng nh́ 20
thưng, hạng ba 13 thưng; so với trở vào Nam, ruộng công rất nặng, ruộng tư
rất nhẹ, cho nên cho đều nhau)”.
(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 220).
14. Nguyễn Văn Tường tâu xin tiếp tục tăng cường việc xây dựng hệ
thống sơn pḥng ở Quảng Trị như khắp cả vùng rừng núi Trung – Bắc ḱ, đặc
biệt là như sơn pḥng trọng yếu Sơn Tây, tháng 10 Ất hợi (tháng 11.1875):
“Đặt nha kinh lư sơn pḥng tỉnh
Quảng Trị, (văn vũ chánh phó sứ mỗi chức một người), lấy 2 huyện Thành Hoá,
Hướng Hóa lệ thuộc vào, theo lời xin của Nguyễn Văn Tường.
(Tường cho là đồn Trấn Lao,
huyện Thành Hóa, giáp giới với Long Giang [Mê Kông – TXA. ct.], đất tốt lợi
nhiều, có thế khống chế. Trước vâng mệnh kinh lư nhưng không chuyên trách,
sau không thành công. Xin châm chước công việc sơn pḥng ở Sơn Tây, đặt sơn
pḥng để được thực tế)”.
(ĐNTL.CB., tập 33, Nxb. KHXH.,
1975, tr. 255).
15. Thượng thư Bộ Hộ Nguyễn Văn Tường tâu bày về việc cải cách thuế
ruộng đất Nam – Bắc, phê phán bọn cường hào ác bá, tháng 3 Canh th́n (tháng
4.1880):
“Trước đây, bố chính sứ Bắc Ninh trước là
Phan Đ́nh B́nh dâng sớ tâu: “Thuế ruộng định lại, quan cho là thuế quân đều,
dân bảo là thu thêm. Lại như thuế ruộng tư mỗi hộc thu thêm 1 bát, dân gian
nhiều người nói là nặng, khó chịu nổi. Về khoản thu thêm, xin thôi”.
Đến đây, Bộ Hộ tâu rằng:
“Từ Hà Tĩnh trở ra Bắc, ruộng công là ruộng
của dân, mà thuế so ra có phần nặng; ruộng tư phần nhiều do bọn cường hào
gian ác chiếm riêng, mà thuế so ra có phần nhẹ. Đổi ra làm thuế chia đều,
cũng là muốn định ra phép thường, mà cho trong nước không có chính [sách –
TXA. ct.] khác nhau; lệnh thuế chia đều được thi hành, tuy thuế ruộng tư
tăng mà thuế ruộng công giảm, tức như ba tỉnh lớn Hải Dương, Nam Định, Hà
Nội, dân đều thu nộp, yên lặng không lời nào khác. Th́ bảo là thu thêm,
chẳng qua chỉ là lời bàn riêng của bọn đàn anh giàu có ở một hạt Bắc Ninh mà
thôi. Làm việc nước phải tự có thể cách chính đại công bằng, sao được mọi
người vui ḷng cả; huống chi, ruộng tư thu thêm [mỗi hộc 1 bát – TXA. ct.],
chứa riêng vào kho công, để pḥng chẩn cấp, cũng là một việc cứu năm mất mùa.
Xin theo lệ thi hành, để tỏ chính lệnh tin đúng; đợi sau này kho chứa được
nhiều, có nên châm chước miễn cho, sẽ do quan tỉnh ấy xét tâu lên”.
Vua nghe theo”.
(ĐNTL.CB., tập 34, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 332 – 333).
16. Thủ đoạn bao vây, cô lập nước ta
về ngoại giao của Chính phủ thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng
10.1881):
“… Lúc bấy giờ, sứ nước Pháp là Lê-na đă
sang thay, nói với quan Thương bạc [lúc này là Nguyễn Trọng Hợp – TXA. ct.]
: “Trong hoà ước có nói, nước ta có việc, nước ấy phải giúp, tuy không nói
rơ là “bảo hộ”, nhưng ư nghĩa đă bao hàm ở trong. Nay khoản ấy Triều đ́nh
nước ấy đă định làm, mà làm như thế, nước ấy [nước Pháp – TXA. ct.] không
lấn quyền nước ta, chỉ bắt ta không được giao thiệp với nước khác thôi. Ta
nếu không nghe, nước ấy cũng bắt làm cho được”.
Triều đ́nh rất lấy làm lo.
Quan Viện Cơ mật – Thương bạc tâu nói:
“Tướng và sứ nước ấy để ư đă lâu, nay tính sẽ làm, mưu đă sắp thành, tưởng
cũng khó tranh luận khúc chiết với nước ấy, tất phải phái người sang nước ấy
hoặc có thể làm việc được … […] … Nước ta nhất định phải đi … […] … Việc ấy
nghĩ nên làm ngay, khỏi lỡ việc sau” ”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 59).
17. Cơ mật viện – Thương bạc nhận định
và vạch kế hoạch mở rộng ngoại giao để phá vỡ âm mưu bao vây, cô lập nước ta
về ngoại giao của thực dân Pháp, tháng 8 Tân tị (tháng 9 – tháng 10.1881):
“Quan Cơ mật viện – Thương bạc lại tâu nói:
“Nước ấy đă mưu, không phải một ngày. […] …
Ngăn ngừa ta giao thông với nước ngoài, là chỗ giảo quyệt của nước ấy. Duy
trong ước có một điều “nước ta muốn định thương ước với nước nào đều được
tuỳ tiện” th́ nước ấy đâu có thể trái lời ước được. Nhưng ta từ trước đến
giờ chưa giao thông với các nước, mà nước ấy không khỏi giữ ngầm ở trong,
nên 6, 7 năm nay, các nước chưa nước nào đến định thương ước với nước ta.
Gần đây ta cùng với nước Y Pha Nho định ước, giao ước với nhau đă lâu, mà
nước ấy [nước Y Pha Nho – TXA. ct.] cũng chưa có đến, th́ t́nh có đáng ngờ,
cũng là t́nh của ta chưa thông với các nước, cho nên nước ấy [nước Pháp –
TXA. ct.] mưu làm tự chuyên. Vả lại giao thiệp với nước ngoài thực khó, ta
chỉ sợ khích nước ấy, ḷng mưu tính ta, v́ đó lại phát ra. Nay mưu nước ấy
sắp thành, ta há nên không giải quyết sớm, huống chi ta cũng cứ lư mà làm,
làm sáng cho chúng biết, có trái ước ǵ đâu, mà chúng vin cớ để nói được …
[…] Nhưng tự trước đến giờ thường bị nước ấy ngăn trở, v́ ta không có tàu,
chỉ đáp tàu với nước ấy, tùy theo nước ấy đi hay đứng mà phải thế. Nay xin
sửa soạn tàu của ta, chọn người ở Triều đ́nh có ḷng đảm đương công việc,
lấy 2, 3 người, lấy cớ đi t́m học về bác vật, như nước Thanh cho người đi
học các nước, tư rơ trước cho nước ấy biết. Đến lúc đi th́ đến nước ấy trước,
nhân chuyển đi các nước Y, Anh, Phổ, Mỹ, khiến cho các nước biết ta tự chủ,
nhân đó mà thông suốt t́nh ư. Tục Thái Tây thích giao thiệp chơi bời với
nước xa, ta đến, tự khắc không nước nào không nhận, tưởng cũng có nước muốn
giao thiệp thông thương với nước ta, thực khiến cho t́nh của nước ta thông
suốt các nước, th́ nước ấy [Pháp – TXA. ct.] không thể tự ư làm càn được.
Nếâu nước ấy có ḷng nào bắt ức ta, ta cũng có thể cùng các nước điều đ́nh
giúp bàn lại, tưởng cũng là một kế đấy… […]Lại việc này c̣n xa, nay gần mà
có thể giao thông được th́ ở Yên kinh, sứ các nước đều ở đấy, nhiều lần sứ
bộ ta sang Yên kinh chưa biết bàn đến việc ấy, v́ sự thể giao tế khác nhau,
cho nên khó làm. Nay có Cục Chiêu thương chở hàng thuê, do quan ở Cục ấy
giới thiệu, tưởng cũng là một cơ hội. Gần đây tiếp được tin báo Đường Đ́nh
Canh tháng này cũng đến, xin do bọn tôi thương thuyết, nhờ viên ấy ngỏ ư với
Lư Hồng Chương nhờ mật ḍ ư sứ các nước Anh, Mỹ, Phổ, để nắm được cốt yếu,
thông thuyết giúp cho. C̣n sứ Y Pha Nho ở đấy, nước ấy đă định ước với ta,
th́ nên bàn với họ. Nước Thanh gần đây tranh nước Lưu Cầu với nước Nhật Bản
mà không được [v́ có sự can thiệp của tổng thống Mỹ Grant – TXA. ct.], nay
nước ấy [nước Thanh – TXA. ct.] […] tưởng cùng ṇi giống [da vàng – TXA.
ct.] với ta cũng lo [lo âu về các nước thực dân da trắng – TXA. ct.], tất
hết ḷng mưu thực mà việc chóng xong…”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 59 – 62).
18. Nguyễn Văn Tường tiếp xúc với sứ
giả Đường Đ́nh Canh để tranh thủ sự giúp đỡ của triều Thanh Trung Hoa, nhằm
vận động sự ủng hộ của sứ thần các nước tại Yên Kinh, tháng 12 Tân tị (tháng
01 – tháng 02. 1882):
“Vua cho là quan nước Thanh vào yết kiến, sợ
sinh ngờ, bèn cho Nguyễn Văn Tường bàn kín với Đường Đ́nh Canh.
Đ́nh Canh nói: “Tháng 10 năm nay, khâm sai
nước Thanh đóng ở nước Anh là Tăng Kỷ Trạch báo tin rằng: Nghị viện nước
Pháp bàn kín, Bắc Kỳ nước ta đất cát màu mỡ, núi sông lại có mỏ vàng, bạc,
đồng, sắt, than đá, xét ra t́nh thể, chỉ giở bàn tay là xong. Lănh sự nước
Pháp là Thoát Lăng lại đă xin đem 1, 2 ngh́n quân đánh lấy Bắc Kỳ. Nghị viện
nước Pháp đă chuẩn y. Chẳng bao lâu tất đem quân nước ấy cùng các đạo quân ở
Tây Cống [Sài G̣n – TXA. ct.] khẩn cấp cùng phát đi. C̣n nói là đuổi Lưu
Vĩnh Phúc chỉ là nói thác ra mà thôi. Vua nước Thanh giao cho các nha môn
quân cơ bàn cho thỏa đáng, cho nên tổng đốc tỉnh ấy phái đạo viên ấy báo tin
cho nước ta, phải mưu tính ngay để mong giữ được”.
Vua cho là thư của tổng đốc ấy đă hồn nhiên,
ta cũng không nên lộ; sai Văn Tường mật dặn Đ́nh Canh 3
việc:
++ […] Nước ta đặt quan đón đón chờ ở kinh đô nước Thanh, nếu có việc ǵ,
được tố cáo ở Tổng lư nha môn.
++ Ở Quảng Đông, hiện nghe lănh sự các nước phần nhiều đóng ở đấy […] … Nước
ta đặt 1 lănh sự ở đấy để tiện đi lại buôn bán, thông báo tin tức, nhân cùng
giao du với các nước để thông hiểu t́nh ư.
++ Nước ta muốn phái người đi khắp các nước như các nước Anh, Nga, Phổ, Pháp,
Mỹ, Áo, Nhật Bản, xem xét và học … […].
[…] … Lại đều đem đồ vật gửi tặng […] … Tổng
đốc họ Trương [Trương Thụ Thanh – TXA. ct.] […] đem đồ vật ấy trả lại, nói
rằng nhận sợ nước Pháp ngờ, có việc khó giảng thuyết; tổng đốc họ Lư [Lư
Hồng Chương – TXA. ct.] cũng lấy thơ và tờ khải đưa cho để tỏ t́nh cùng
khuyên về ư đều phải tự cường”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 90 – 91).
19. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về Dục Đức (hoàng trưởng tử Ưng
Chân), tháng 6 Quư mùi (tháng 7.1883):
“… Trẫm nuôi sẵn 3 con. Ưng chân,
cố nhiên là học lâu trưởng thành, chính danh đă lâu; nhưng mặt [mắt – TXA.
ct.] hơi có tật, giấu kín không rơ ràng, sợ sau không sáng; tính lại hiếu
dâm; cũng rất là không tốt; chưa chắc đương nổi việc lớn. Nhưng nước cần có
vua nhiều tuổi, đương lúc khó khăn này, không dùng hắn th́ dùng ai? …”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 199).
20. Đoạn di chiếu của vua Tự Đức về 3 phụ chính, tháng 6 Quư mùi (tháng
7.1883):
“… Bọn Trần Tiễn Thành, Nguyễn
Văn Tường, Tôn Thất thuyết cùng ta gặp biết, tuy có sớm muộn hơi khác, mà
ḷng trung thành yêu mến chăm lo như một; từng làm việc nơi cơ yếu đă lâu,
thân được chỉ bảo; nếu có gặp việc khó khăn, cũng giải quyết được. Vậy cho
Trần Tiễn Thành sung làm phụ chính đại thần; Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất
Thuyết sung cùng là phụ chính đại thần. Bọn ngươi nên nghiêm sắc mặt đứng ở
Triều đ́nh, giữ ḿnh đứng đắn; đốc suất quan thuộc, mọi việc cùng ḷng làm
cho thỏa đáng; trên giúp vua nối ngôi điều không biết đến, dưới chữa chỗ
lệch lạc cho các quan, để Nhà nước yên như núi Thái Sơn; thế là không phụ sự
ủy thác …”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 200).
21. Đoạn di chúc của vua Tự Đức về Ưng Kĩ (Đồng Khánh), Ưng Đăng (Kiến
Phúc), tháng 6 Quư mùi (tháng 7.1883):
“… Trong 3 người con, th́ Ưng
Chân đă nói rồi. Ưng Kỹ người yếu hay ốm, có tâm tật, học chưa thông mà kiêu
ngạo, hay bới việc riêng của người khác, cho lạm thẳng, đều không phải là tư
chất thuần lương, theo lời phải; sợ bọn ngươi khó lấy lời nói can được. Duy
con út là Ưng Đăng, hầu hạ cẩn thận, biết sợ, dạy được, chưa thấy có vết ǵ,
nhưng tuổi c̣n ít, đương học chưa thông, đương lúc khó khăn này chưa chắc đă
am hiểu. Cho nên trẫm cắt bỏ ḷng riêng, theo lẽ công, quyết thi hành mưu kế
lớn, là v́ xă tắc. Nghĩ ơn nuôi nấng hết ḷng, không nên để cho phân biệt,
nhưng chưa kịp làm, nay cho sung làm hoàng tử, cho đổi tên là Ưng Hỗ …”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 201).
22. Vụ truất phế Dục Đức, tháng 6 Quư mùi (tháng 7.1883):
“Quư mùi, năm Tự Dức thứ 36
(1883), tháng 6, ngày mậu th́n, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bỏ vua nối
ngôi, lập em út vua là Lăng quốc công Hồng Dật.
Trước đây, vua mới mất đi chọn
nuôi hoàng tử, cùng trước sau nuôi ở trong cung 2 công tử nữa là hoàng tử
thứ 2, hoàng tử thứ 3. Vua cho là hoàng tử thứ 3, tuổi c̣n bé, hầu hạ cẩn
thận, biết sợ, rất yêu. Mà về hoàng trưởng tử th́ dạy bảo càng nghiêm,
thường v́ lầm lỗi bị quở. Văn Tường nghĩ hoàng trưởng tử tất không được lập
lên làm vua mới khinh thường hoàng trưởng tử [về tư cách đạo đức, quan điểm
chính trị – TXA. ct.] mà chỉ để tâm đến hoàng tử thứ 3. Đến nay tờ chiếu để
lại cho nối ngôi lại là hoàng trưởng tử, Văn Tường trong ḷng không được yên,
Thuyết cũng không bằng ḷng với tự quân.
Gặp khi tự quân ở điện Hoàng
Phúc đem nhiều người riêng vào hầu hộ vệ ở điện Hoàng Phúc và các sở Quang
Minh, (đều sai chế bài
cấp cho đeo), bọn ấy nhân đó ra vào tự do; các tờ tâu khẩn cấp của các quân
thứ các tỉnh tâu lên, có khi để ở trong điện một đêm, vẫn chưa giao ra. Lại
trong khi làm lễ điện (cúng vua mới chết) vẫn mặc áo sắc lục cũ, hoặc sai
chế ngay các đồ dùng riêng (các thứ quần áo đồ dùng).
Văn Tường bảo kín Thuyết rằng:
“Tiên đế đă bảo vua nối ngôi chưa chắc đương nổi việc lớn, lại giao cho ngôi
lớn. Nay bắt đầu, cử động đă như thế, huống chi là ngày sau ư? Đó là việc lo
riêng cho chúng ta”. Thuyết vốn tính cương trực lại cậy quyền cầm quân liền
mật đáp rằng: “Cứ như lời chiếu th́ mưu tính là v́ xă tắc, bất đắc dĩ mà làm
việc nhỏ như Y Doăn, Hoắc Quang (*), cũng là chí của tiên đế”; nhân thế cũng
có ư mưu bỏ [phế Dục Đức – TXA. ct.] đi.
Sau rồi vua nối ngôi lại nghĩ
trong tờ di chiếu răn bảo có những câu không tốt, không thể truyền bá cho
mọi người nghe; triệu các phụ chính đại thần, cần bớt một đoạn ấy đi, không
tuyên lục ra. Trần Tiễn Thành bảo thế cũng ổn, 2 người đều thưa rằng: “Xin
nhà vua quyết định”; vua nối ngôi tin là cùng bằng ḷng, bèn sai sao tờ di
chiếu, tự tay xóa bỏ đoạn ấy đi; dặn Trần Tiễn Thành nhớ mà làm. 2 người ra
bàn kín với nhau rằng: được rồi; mưu ấy bèn nhất định.
Đến lúc tuyên đọc tờ chiếu, Văn
Tường cáo ốm không đứng trong ban chầu, Thuyết đứng vào bên Trần Tiễn Thành.
Tiễn Thành đọc đến đoạn ấy, đọc nhỏ hàm hồ không rơ. Văn Tường ở chái bên
đông, làm ra vẻ quái lạ, nói rằng: “Vua nối ngôi sao được giấu bớt di chiếu
của tiên đế? Bậy bạ không ǵ to hơn nữa; c̣n có thể nối theo tôn miếu xă tắc
được ư?”.
Tuyên đọc xong, hai người hỏi
vặn Tiễn Thành; Tiễn Thành biết là bị chúng đánh lừa, nói chữa rằng: “Có
phải không đọc đâu, nhưng lăo phu có bệnh ho, đọc đến đây hết hơi tiếng nhỏ
mà thôi”. Thuyết chứng tỏ là không phải, cho là càn bậy, cũng như lời của
Văn Tường nói; rồi nhân phái quân túc vệ canh gác trong ngoài cung thành rất
nghiêm (bắt hết cả người riêng của vua nối ngôi là bọn Nguyễn Như Khuê, hơn
10 người, giao cho đem gông cùm lại). Họp hoàng thân và các quan ở Tả vu, 2
người tuyên bố về việc tội lỗi của vua nối ngôi, xin bỏ đi, lập vua khác.
Tiễn Thành muốn can ngăn, Thuyết trừng mắt nh́n, nói rằng ông cũng có tội
to, c̣n nói ǵ.
Trong khoa đạo có chưởng ấn là
Phan Đ́nh Phùng [**] tiến lên nói rằng: “Vua nối ngôi nếu có lỗi, chưa thấy
can ngăn, đă vội bàn như thế; việc bỏ vua, dựng vua là việc to, lại dễ dàng
quá thế”. Thuyết quát lên, sai tả hữu đem Đ́nh Phùng trói để ở trại quân Cẩm
y, bảo đợi để nghiêm trị. (Lúc bấy giờ, 4, 5 người theo sau Đ́nh Phùng nghe
Thuyết thét trói Đ́nh Phùng tức đều lui tan), cho nên Tiễn Thành và hoàng
thân, các quan không ai dám trái; rồi cùng kư tên tâu xin ư chỉ của Từ Dụ
thái hoàng thái hậu truất bỏ đi.
Sai người đưa vua nối ngôi về
chỗ cũ là Dục Đức đường, canh pḥng rất kỹ.
Khi mật bàn người được lập, Văn
Tường để ư đến hoàng tử thứ 3 mà Thuyết th́ cho là hoàng đệ Lăng quốc công
có tư chất thông minh, vốn quen biết sẵn, để ư đến Lăng quốc công. Văn Tường
tính là không tranh nổi, cũng theo lời ấy, rồi đem ư xin lập vua nhiều tuổi
tâu trước với cung Gia Thọ (tức là Từ Dụ thái hoàng thái hậu) để lănh chỉ.
Được ư chỉ truyền rằng: “Hiện nay trong th́ lo về vua mới mất, ngoài th́ có
giặc ngoại xâm, người ít tuổi thực không đương nổi, nhưng thân này già cả,
sao biết được, phần nhiều nhờ Tôn nhân, phụ chính, đ́nh thần, cùng nhau chọn
các hoàng đệ, ai nên lập th́ lập lên làm vua”.
Thuyết bèn đến pḥng Cơ mật bảo
bọn thượng thư Nguyễn Trọng Hợp, thị lang Lâm Hoành, Trần Thúc Nhận [Nhẫn –
TXA. ct.], Hoàng Hữu Thường, thị vệ đại thần Tôn Thất Thái rằng: “Ngày nay
phi t́m vua nhiều tuổi cho xă tắc, không ai hơn Lăng quốc công; các ông nên
phải nói”.
Lúc bấy giờ bên ngoài nghe tin
cấp báo đương gấp, chợt có biến bên trong, đều không ai biết làm thế nào;
đến khi hội bàn ở Tả vu, Văn Tường và Thuyết hỏi trước các thân phiên, hoàng
thân th́ đều nói rằng: “Tuy cũng ở trong tôn thống, nhưng ngày thường mỗi
người ở riêng một nhà, không biết rơ được; xin 3 đại thần cùng đ́nh thần
liệu bàn”. Tường, Thuyết lại hỏi; đ́nh thần nói ngày nay việc không thể hoăn
được. Trọng Hợp bèn nói trong các hoàng đệ có Lăng quốc công, vốn khen là
người có học, được tiên đế cho sung chức Tôn đài; nay hiện việc như thế,
chưa biết Lăng quốc công có đương nổi không? Lăng quốc công đứng dậy khóc
nói rằng: “Tôi là con út của tiên đế, tư chất tầm thường, thực vạn vạn phần
không dám nhận”. Văn Tường và Thuyết đều nói rằng: “Đấy thực là phúc của xă
tắc, xin đừng từ chối”; bèn cùng các quan kư tên tâu xin ư chỉ của thái
hoàng thái hậu, lập Lăng quốc công làm vua”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 205 – 209).
(*) Y Doăn
đuổi vua là Thái Giáp ra ở Đông cung 3 năm, sau lại đón về cho làm vua. Hoắc
Quang làm tướng, bỏ vua là Xương Ấp vương, lập Hán Tuyên đế làm vua (xem Bắc
sử) [chú thích của Viện Sử học].
[**] Ngay
sau đó, Phan Đ́nh Phùng đă hiểu rơ sự thể, nên năm sau (1884), ông lại được
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trọng dụng trong việc tiếp tục tổ chức,
xây dựng, kiện toàn Sơn pḥng Hà Tĩnh. Xin xem: ĐNTL.CB., tập 36, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 184 – 185. TXA.
23. Tập tâu của nhóm chủ chiến (Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết),
tháng 6 Quư mùi (tháng 7.1883):
“Quan Viện Cơ mật lại tâu:
“Ta cùng với nước Pháp, mạnh yếu
khác nhau, cho nên trước th́ 3 tỉnh, sau rồi 6 tỉnh Nam Kỳ đă bị chúng chiếm
cứ. Vừa rồi, đến Bắc Kỳ lấy 4 tỉnh rồi lại trả liền, nay lại lấy Nam Định,
Hà Nội mà chiếm cứ. Hoà ước rơ ràng, mà chúng dám coi thường như thế, th́
hoà ước cũng không đủ cậy. Ta đă chịu khuất, không dám tranh đua sức mạnh,
mà chúng cũng chưa từng thương kẻ yếu. Tuy thông sang Vân Nam, là nguyện
vọng của chúng, nhưng việc mượn đường chưa chắc là thực cả. (Vừa rồi nghe
tin nhật báo: nói muốn đến Thuận An bắt hiếp phải hoà); đấy là do một vài kẻ
[thực dân – TXA. ct.] cầu công, nguyên không phải do [Quốc hội – TXA. ct.]
nước ấy cùng bàn, mà ta chỉ lần chần nhát yếu, không dám làm ǵ, dần dần đến
cái thế không thể làm được. Nay nhờ tiên đế đưa thư cho nước Thanh nói rơ
nghĩa lớn, Lư Hồng Chương trù lượng phái quân sang, làm thanh thế cứu ứng ở
xa, cho nên chúng chưa thể nuốt được. Nhưng hiện nay thế thành ra cưỡi hổ,
tên đă ở cung, nếu không đánh tan sào huyệt, th́ chúng có th́ giờ mưu tính,
không những yêu sách nhiều cách; Lư Hồng Chương ngại về điều đ́nh, mà [quân
Pháp – TXA. ct.] đến cửa Thuận An bắt hiếp phải hoà, ta cũng khó giành được
phần thắng.
Xin lại giáng dụ nghiêm sức các
quan quân thứ chia quân tiến đánh, cho chúng nhọc về pḥng bị, không có th́
giờ mưu tính việc khác, th́ ta mới giữ vững để đợi nước Thanh xử trí”.
Vua bảo rằng trí khôn mọi người
đă định, việc thành là ở quả quyết, tạm nghe theo”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 215).
24. 3 đại thần đă xin vua Tự Đức bỏ bớt đoạn răn bảo Dục Đức, Tự
Dức không đồng ư; nay xét xử tội “truyền tả chế thư sai lầm” của Trần Tiễn
Thành, tháng 8 Quư mùi (tháng 9.1883):
“Khoa đạo là Hoàng Côn, Đặng
Trần Hanh tâu nói: “Hôm trước ở Tả vu điện Cần Chánh, cứ viên đồng phụ chính
đại thần là Tôn Thất Thuyết nói rơ, là có một đoạn trong di chiếu của tiên
đế răn bảo vua nguyên nối ngôi, v́ vua nguyên nối ngôi sao lục ra đă bỏ bớt
đi, đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc cùng bỏ đoạn ấy đi, có phần không
phải”.
Trẫm xét: “Ngày tiên đế ngồi tựa
ghế ngọc, các phụ chính đại thần đă xin bớt đoạn ấy đi. Tiên đế không nghe,
đủ biết là tiên đế nghĩ việc phó thác tôn miếu, xă tắc là việc trọng đại, lo
sâu nghĩ xa, cho nên nói khẩn thiết như thế. Đại thần được dự nghe mệnh lệnh
dặn lại, phải nên trên thể theo ư của tiên đế mà tuyên bố cho mọi người nghe,
lại coi như bỏ rơi; trước đă xin bớt mà không được, nay lại tự bỏ đi mà
không đọc” [*].
Tôi cho là: “Vua nguyên nối ngôi
bỏ bớt lời di chiếu, chưa chắc đă không phải tự viên đại thần ấy dẫn đường
ra trước. Vậy xin giao cho đ́nh thần bàn xét để nghiêm kỷ cương”.
Vua giao cho đ́nh thần bàn, mọi
người đều xin chiểu luật “truyền tả chế thư sai lầm” mà xử tội trượng, cách
chức.
Vua cho là đời xưa thời b́nh
chính giản, cũng c̣n dùng người cũ, nữa là ngày nay thời khó khăn, việc
nhiều, há nên đem viên đại thần 4 triều, lầm một cái mà không dung thứ ư?
Đổi làm giáng 2 cấp, lưu [dụng – TXA. ct.]”.
(ĐNTL.CB., tập 35, Nxb. KHXH.,
1976, tr. 231).
[*] Xin
xem thêm: Bản sớ của Trần Tiễn Thành về vụ việc này, trong bài viết của Đào
Duy Anh, “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des amis du vieux Huế, 1944),
đă được Bùi Trần Phượng dịch, in trong cuốn “Phụ chánh đại thần Trần Tiễn
Thành” của Nguyễn Đắc Xuân, Nxb. Thuận Hóa, 1992, tr. 13 – 87. Bản sớ ấy
viết rơ: Nguyễn Văn Tường cho rằng, chiếu lập vua nối ngôi mà kể tọâi Ưng
Chân (Dục Đức) như thế, e rằng không hợp lắm, xin bỏ bớt đoạn ấy đi. Trần
Tiễn Thành và Tôn Thất Thuyết đều đồng ư, cùng làm sớ xin Tự Đức bỏ. Nhưng
Tự Đức không đồng ư bỏ. TXA.