TRẦN
XUÂN AN
NGUYỄN
VĂN TƯỜNG,
“NHỮNG NGƯỜI TRUNG NGHĨA
TỪ XƯA,
TƯỞNG
KHÔNG HƠN ĐƯỢC”
KHẢO LUẬN VỀ MỘT VÀI KHÍA CẠNH SỬ HỌC
Nhà Xuất bản
2003
NHỮNG TRANG NGOÀI SÁCH
(*) Đó là cuốn Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người
trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được” này. TXA.
(**) Xem Lời giới thiệu của Chương Thâu: Những tác phẩm của
Phan Bội Châu (tập 1), gồm Việt Nam vong quốc sử, Việt Nam quốc sử khảo, Văn
Tạo chủ biên và nhiều người dịch, hiệu đính, Nxb. KHXH., 1982, tr. 48: “Kư
Việt Nam vong nhân chi ngôn” (Chép lời người Việt Nam mất nước) …; “Những
lần xuất bản sau đều in trong các bộ Hợp tập, Chuyên tập, Toàn tập Ẩm Băng
Thất” của Lương Khải Siêu.
TRONG CHUYẾN ĐI THỰC ĐỊA
Ở QUẢNG TRỊ
(SAU KHI THAM DỰ CUỘC HỘI THẢO KHOA HỌC
VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN VĂN TƯỜNG
[1824 – 1886]
TẠI HUẾ, DO TRUNG TÂM KHOA HỌC XĂ HỘI VÀ
NHÂN VĂN THUỘC VIỆN ĐẠI HỌC HUẾ, HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ THỪA THIÊN – HUẾ PHỐI
HỢP TỔ CHỨC,
DƯỚI SỰ CHỦ TR̀ HỘI THẢO
CỦA HỘI KHOA HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM,
02.7.1885 [22.5 ÂL., NHÂM NGỌ]).
I. Ngày 04.7.2002, lúc khoảng 14 giờ,
tôi đến khảo sát, chụp ảnh và ghi chép nguyên văn các ḍng chữ Hán – Nôm đă
được dịch ra quốc ngữ trên tấm bia đá phía sau tháp tử đạo tại làng Trí Bưu
(Cổ Vưu), Quảng Trị.
Các chữ được khắc trên tấm bia đá:
LĂNG TỬ ĐẠO TRÍ BƯU
ĐỂ TƯỞNG NIỆM MUÔN ĐỜI CÔNG ĐỨC TỔ TIÊN
LỊCH SỬ BIẾN CỐ TỬ ĐẠO
Năm 1885, sau khi kinh đô Huế thất thủ,
phái Văn thân xứ Dinh Cát phát động phong trào “B́nh Tây sát tả”.
Sáng ngày 06.9.1885, phong trào được
phát lệnh trong thành Quảng Trị.
Tối ngày 06.9.1885, hơn 800 giáo hữu
Trí Bưu chia thành 2 nhóm chạy vào LA VANG lánh nạn cùng với cố Mathey (Thiện)
[*] và cha phó Bửu [khoảng để trống, có lẽ để chua tên tiếng Pháp – TXA.
chua thêm (ct.)] nhưng sau đó v́ sợ không an toàn, nhóm của cha Bửu [khoảng
để trống – TXA. ct.] lại trở về Trí Bưu.
Ngày 07.9.1885, quân Văn thân chiếm
làng Trí Bưu và đốt phá nhà thờ, trong đó có cha phó và hơn 400 giáo hữu bị
thiêu sát.
Sau biến cố, cha Bùi Thông Bửu và hơn
600 giáo hữu đă anh dũng chết v́ đạo Chúa.
CỔ TỰ HÁN – NÔM
LĂNG TỬ ĐẠO:
1) Bốn góc đỉnh tháp:
Ai làm cho người hoà thuận ấy là phước thật.
Ai có ḷng thương xót người ấy là phước thật.
Ai khóc lóc ăn năn tội ấy là phước thật.
Ai chịu khốn v́ đạo ngay ấy là phước thật.
2) Bốn mặt tháp:
a. Tiền:
Nhất thiên bát bách [**]
Thiên Chúa giáng sanh
Cửu thập tam niên.
[Năm 1893 / Thiên Chúa giáng sinh –
TXA. ct.].
b. Hậu:
Nhất thiên bát bách
Hồng ân Thiên Chúa
Bát thập ngũ niên.
[Năm 1885 / hồng ân Thiên Chúa – TXA.
ct.].
c. Hữu:
Ất dậu niên cửu nguyệt thất nhật
Giáo hữu sở bị thiêu sát tử.
07.9.1885
[Ngày bảy tháng chín [dương lịch] năm
Ất dậu [***]
Giáo hữu vốn bị chết [do] đốt giết –
TXA. ct.].
d. Tả:
Lục bách dư giáo hữu hài cốt
Dĩ an táng chính tại thử địa.
[Hơn 600 hài cốt giáo hữu
Vốn an táng đúng tại [chỗ] đất này
– TXA. ct.].
3) Bốn góc tháp dưới:
a. Tiền – hậu:
Qua đống lửa than đốt tan mọi chước
Cơi sinh thường muôn phước hy hoàn.
Phó ḿnh con cho ngọn lửa tiêu pha
Chốn thánh điện dâng mà tế lễ.
b. Hữu – tả:
V́ đạo Chúa mặc lưỡi gươm phân xẻ
Tiết trung can rạng rỡ làm gương.
Theo cờ Thánh giá thắng cả ba thù [Nho, Phật,
Lăo?!? – TXA. ct.]
Chức tử đạo ngh́n thu rực rỡ.
[Hán + Nôm].
CON CHÁU ĐỒNG PHỤNG LẬP.
CHÍNH TẠO: 1893.
TÁI TẠO: 1997 - 1998.
Các chữ khắc trên tấm biển đá nhỏ dưới tấm
bia đá:
KÍNH NHỚ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TRÍ BƯU
HỘI ĐỒNG HƯƠNG TRÍ BƯU
TẠI: QUẢNG THUẬN, 12-8-1998.
[Tháp vốn được khảm các ḍng chữ Hán –
Nôm như trên bằng mảnh gốm sành sứ, vào năm 1893, và có lẽ đă bị bom đạn làm
hư hỏng ít nhiều; nay đă được tái tạo đúng như nguyên trạng, với thời gian
thi công trong khoảng hai năm, từ 1997 đến 1998 – TXA. ct.].
[*] Theo Henry de Pirey,
bài “ Một kinh đô phù du: Tân Sở”, BAVH., bản dịch, tập I, Nxb. Thuận Hoá,
1997, tr. 233: 2 tên thực dân – cố đạo MATHEY này và cố đạo Patinier – đă
đẫn quân Pháp lên Tân Sở, tấn công, đốt sạch, phá sạch Tân Sở cùng các làng
Mai lộc, Mai Đàn và Bảng Sơn quanh đó.
Xem thêm: Jabouille,
“Một trang viết về lịch sử Quảng trị: tháng 9. 1885”, BAVH., bản dịch, tập
X, Nxb. Thuận Hoá, 2002, tr. 433 – 445… TXA chú thích.
[***] Xin lưu ư: Bia
được khắc ghi ngày, tháng, năm dương lịch (07.9.1885) nhưng có chua thêm năm
thuộc âm lịch (Ất dậu). Lưu ư thêm: Ngày Nguyễn Văn Tường bị Pháp bắt lưu
đày là 27.7 âm lịch, Ất dậu, đối chiếu chính xác với dương lịch là
05.9.1885. TXA.
II. Ngày 04.7. 2002, lúc khoảng 04 giờ,
tôi về viếng mộ, dâng hương, chụp ảnh và ghi chép tại Đền thờ Ḱ Vĩ phụ
chính đại thần Nguyễn Văn Tường (vừa mới được xây dựng), tại làng An Cư, xă
Triệu Phước, tỉnh Quảng Trị:
NHÂN CHUYẾN ĐI NINH THUẬN
KHỞI
HÀNH VÀO LÚC KHOẢNG 04 GIỜ 30 NGÀY 17.7.2002,
VỀ ĐẾN
NHÀ VÀO LÚC 03 GIỜ NGÀY 20.7.2002
Rất t́nh cờ, ở Chakleng (làng Mỹ
Nghiệp, Ninh Phước, Ninh Thuận), Inrasara tặng tôi cuốn Văn học Chăm II –
Trường ca, Nxb. Văn hoá Dân tộc, 1996. Mở ra, t́nh cờ phát hiện một đoạn
ngắn trong trường ca Ariya Po Parơng [đọc là Pô Parăng], có nhắc đến cuộc
Kinh Đô Quật Khởi, 05.7.1885 (23.5 Ất dậu), ở tr. 170 - 174. Đây là trường
ca do một người Chăm, bị bắt buộc phải đi “du khảo bác vật” với tên quan lớn
Pháp (pô Parăng [France]) E. Aymonier, viết về chuyến đi đó. Đại Nam thực
lục, bản dịch, tập 36, Nxb. KHXH., 1976, tr. 158 có chép lại việc Viện Cơ
mật – Thương bạc cấp giấy phép cho chuyến “du khảo bác vật” này trong một đề
mục thuộc tháng 06 năm Giáp thân (1884). Có lẽ E. Aymonier đă “du khảo” ở
phía nam thuộc tỉnh B́nh Thuận xưa (Phan Thiết) vài ba tháng, rồi mới yêu
cầu quan sở tại điều động những người Chăm ở phía bắc thuộc tỉnh B́nh Thuận
xưa (Phan Rang) đi theo y. Chính HƠP AI, tác giả bản Ariya Po Parơng, đă
viết rơ: tác giả khởi hành từ tháng giêng năm Ất dậu (1885):
… “Ngày hai mươi tháng
giêng năm Dậu (1)
Quan Pháp sai bắt
chúng tôi đi cùng” …
(sđd., tr. 163).
Về cuộc Kinh Đô Quật Khởi, nguyên văn
bản dịch của Inrasara như sau:
“… Vào lúc bảy giờ ngày hai mươi tháng sáu
(1)
Quân Pháp đánh vào Huế, bắn phá dinh vua
Khói lửa bay tung mù trời
Quân nhà Nguyễn chết như kiến, cả ngựa lẫn
voi
Sau đó, quân Pháp tiến vào mở cửa thành
Binh lính trong thành sống sót, chẳng biết
đường nào mà đi
Măi tới trưa mới t́m được lối ra
Bụng đói, mắt thâm quầng, chân run đi
không nổi
Hoảng hồn bước lên rồi té ngă
Thêm choáng váng bởi thuốc súng, người họ
mệt lả bơ phờ
Có người ḅ trườn ra tới cửa thành
Vừa ngóc đầu lên nh́n th́ bị một tên lính
Tây
đứng gác, nạt lớn không cho ra
Khi ấy (nghe tin) Tôn Thất Thuyết pḥ vua
Cùng chạy ra khỏi thành đi ẩn náu ở xứ khác
Nguyên soái (2) cho chạy tin khắp đất nước
Lệnh cho quân nhà Nguyễn trong mười ngày
phải (nộp vũ khí) xin hàng
Tướng (3) trong triều cũng đă giao thành
Rồi kư sắc lệnh chịu hàng không chống Pháp
nữa
Ngoài khơi, bảy chiến hạm chực sẵn
Sáng hôm sau, quân Pháp ra lệnh truy t́m
nhà vua…”
(sđd., tr. 171 &
tr. 173).
(1)
Có lẽ tác giả
người Chăm có tên là Hơp Ai này tính ngày tháng theo lịch Chăm.
(2)
Nguyên soái (nguyên
tác: “Ngwen Srwac”, xem sđd., tr. 172): chỉ De Courcy. Xin xem thêm từ
“nguyên soái” này ở sđd., câu 196, tr. 191.
(3)
“Tướng”,
nguyên văn tiếng Chăm là “Praung Ywơn” (sđd., tr. 172), có nghĩa là tướng
người Kinh hoặc đại thần người Việt, chỉ đệ nhất phụ chính đại thần Nguyễn
Văn Tường. Thật ra, quân tướng Pháp đă chiếm thành bằng cuộc tấn công với
hoả lực mạnh. Nguyễn Văn Tường phải kí thoả ước tạm thời với De Courcy để
nhận lại kinh thành. Tác giả Hơp Ai của kí sự thơ này không ghi nhận được kế
sách kẻ đánh, người đàm, “kẻ ở, người đi” của Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết.
TXA.
chú thích.
Đoạn thơ lục bát kiểu Chăm (từ cặp câu thứ
61 đến cặp câu thứ 70) nói trên, vào ngày 24.7.2002, Inrasara đă dịch sát
nghĩa từng chữ (theo cách thức dịch tư liệu) như sau:
… “Năm [ngày sau ngày rằm: 20] tháng sáu,
đánh ở Huế
Bảy giờ sáng, Pháp đánh tan thành (dinh)
Khói lửa tối tăm mù mịt
[Người] Kinh chết như kiến, ngựa [và] voi
không sót
Rồi họ mở cửa thành [dinh] thật lớn
Mấy [:số] tàn quân sót lại không biết đi nơi
đâu
Giữa trưa mới thấy lối ra
Bụng đói, mắt quầng, run rẩy đi không nổi
Sợ hăi bước đi, đứng dậy rồi lại ngă
Kiệt lực không đi nổi, [mùi thuốc] đạn làm
xây xẩm
Trườn lết ra tới cổng thành
[Gượng] dậy, trông thấy một người Tây [nạt]
nộ
không cho ra (1)
Đâu vua [?], Tôn Thất Thuyết, ông ta bồng [:pḥ]
Chạy ra, mang lên, đi đâu xứ khác
Nguyên soái [Pháp] cho chạy thư khắp xứ
Đánh hoặc làm thế nào, ông ta hẹn mười ngày
Tướng Việt [:Kinh] chịu giao thành [:dinh]
cho Tây
Làm thư rồi ban bố*, xin hàng, không dám
đánh
Tàu Pháp đậu ở Huế bảy chiếc
Buổi sáng nó [:họ] ở không [:không động tĩnh],
nó [:họ] chạy
thư đi t́m vua (2)”…
(1)
Dị bản: Nh́n thấy một người Tây treo cờ lên.
(2)
Dị bản: Treo cờ, chuẩn bị xong, cho thư t́m vua.
*Nguyên văn tiếng Chăm
là brei, có nghĩa là thông [qua]. Cả câu là: Làm
[văn] thư xong, thông qua, xin chịu [thua], không dám chiến đấu [nữa].
Ngoài ra, ariya Po Parơng c̣n ghi nhận
không khí trước ngày Kinh Đô Quật Khởi 05.7.1885, trước sự uy hiếp Huế của
De Courcy, ở B́nh Định, Quảng Nam, Quảng Ngăi:
“… Riêng tôi cáo từ mọi người ra B́nh Định
trước tiên
Ḷng những e ngại khi phải đi một ḿnh
Ông parơng khôn hơn nên lánh mặt
Xua chúng tôi toàn bọn đi trước dẫn đường
…”.
(sđd., tr. 167).
“… Một người Kinh đi tới, tay xách theo
chiếc
roi
Người thấp lùn và xấu trai, hắn bảo có quen
tôi
Lời lẽ hắn với vẻ chân thành
Bảo v́ thương tôi nên mới báo tin cho biết
Rằng có người doạ t́m giết
Rồi khuyên can tôi đừng đi tiếp nữa, kẻo
chết
oan
Thật là số hên nên được người Kinh thương
Quay về ngay trong đêm, tôi ghé ngủ nhờ nhà
dân đạo
Sáng sớm, sau khi nhét thuốc súng vào đầu
súng
Chúng tôi trở về báo cáo với quan Pháp
Tôi tŕnh bày những điều nghe được
Với po Parơng và ông ta thở dài
Ở Quảng Nam, Quảng Ngăi cũng có người
Chuẩn bị gươm đao để tấn công đoàn chúng
tôi
Doạ giết rồi họ sẽ chạy thư đi
Cho quân bao vây và nhắn tin khích người
Pháp tới đánh
(sđd., tr. 171).
Và về phong trào Cần vương ở Trung –
Bắc ḱ:
“… Ngày chủ nhật, Tây lên tấn công
Tàu salút chuyển quân suốt đêm ngày không
nghỉ
Bên Pháp một ngày có năm mươi quân bị giết
Khi đem chôn xác chết, họ cởi hết áo quần
Tập tục như thế, ai họ cũng không chừa
Thể xác trần truồng không c̣n manh áo
Đêm đêm chúng tôi sợ run không ngủ được
Nuốt không trôi cơm nên ai nấy mệt phờ
Măi khấn nguyện trời cao pḥ hộ độ tŕ
Được b́nh an thoát khỏi chốn này nhờ ơn
trên
C̣n khi nghe tiếng súng nổ đùng đùng
Lại bắt đầu thấy hoảng nên chẳng ai ngó tới
bữa ăn
Rồi th́ xúm nhau lại cầu nguyện nữa
Đó là nơi họ gọi Phủ Kho Quang (1) (2) …”.
(sđd., tr. 177).
(1)
Khauw Kwang:
tên một phủ ở Bắc ḱ (?).Inrasara chú thích.
(2)
Phủ Nho Quan ở
Ninh B́nh?
Và những mưu toan thực dân với luận
điệu lừa mị, trong khi chúng đă vơ vét, cướp đoạt tượng thờ, bia đá Chăm
trong chuyến đi này …
Tp. HCM., ngày 21 –
24.7.2002
(12 – 15 tháng 06 Nhâm
ngọ,
năm thứ 2 công nguyên
Hoà B́nh).
TRẦN XUÂN AN
TRẦN XUÂN AN
Trích bài thơ dài
CẢM NHẬN BÊN D̉NG SÔNG
12
Nguyễn Đ́nh Chiểu
Phương nam! Rời ră mỏi ṃn
Đă mất Mẹ, Nước có c̣n, Nước ơi!
Có đôi mắt cũng mù rồi
Bước qua số phận, chân người cứng thêm
Ước mơ – ngọn lửa bùng lên
Nung rèn gươm bút Vân Tiên giữa đời
Từng đơn thuốc ấm t́nh người
Với quê hương lại rạng ngời trái tim
Đuốc nghĩa quân sáng niềm tin
Từ trong dân dă cái nh́n sáng hơn?
13
Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết,
Lễ tần Nguyễn Nhược Thị Bích,
Nguyễn Thượng Hiền,
và vè “Thất Thủ kinh đô”
Dụ Cần vương dậy Trường Sơn
Giải Triều, trung nghĩa, tờ son gửi về
B́nh Tây, sát tả-tà-mê
Cho Tân Sở – Huế tư bề hoa giăng
Lễ tần viết sắc “hoà” ban
Tôn Thuyết chiến để Nguyễn Văn Tường đàm
Pháp tung cáo trạng Bắc, Nam
Lưu đày Ḱ Vĩ, chết thầm đảo xa
Súng rền, khâm sứ bôi nhoà
Ḥm tù đỏ, Hạnh Thục ca hoen vàng
Vè Thất thủ giữa dân gian
Giọng run lệch, bởi chuông vang giáo đường
Thơ Nguyễn Thượng Hiền buốt sương
Thương thái phó +, ngó sen vương, dặm về
14
Nguyễn Khuyến
và sau đó, Trần Tế Xương
Bơ vơ, về với làng quê
Nụ cười Yên Đổ thoáng nghe thu buồn
Cờ dở cuộc, bạc chạy lường ++
Quốc kêu khuya vắng, máu tuôn thấm ḷng
Rất riêng, vẫn một nguồn sông
Chút t́nh non nước vọng hồn nước non
Trách ḿnh chi, buổi hoàng hôn
Chao ơi phỗng đá vẫn c̣n đó đây
Lửa bùng, tắt nghẹn, đêm dày
Mưa đời vây bủa như dây trói ḷng
Niềm đau buốt xót tận hồn
Tú Xương bật tiếng cười ḍn, ngẩn ngơ
Lạc đường, ngóng đến bao giờ
Giật ḿnh, lạnh tiếng gọi đ̣, đêm khuya
15
Phan Bội Châu
và “Việt Nam vong quốc sử”…
Mắc mưu Hữu Độ toả mê
Khang, Lương (Đại Hán!), xoá thề Cần vương
Duy tân theo Nhật, nghẹn đường
Súng gươm Quang phục, tự cường, khôn nguôi
Mai Lăo Bạng +++, sống bên Người
Sách kia ai sửa?
Quên lời sắt son!
Gót chân ngang dọc chưa ṃn
Mắt sương Bến Ngự vẫn c̣n ngóng trông
Xa xa một ngọn cờ hồng ++++
Nụ cười hi vọng, ấm ḍng sông Hương
TRẦN XUÂN AN
+ Ngoài tước hiệu Ḱ Vĩ
quận công, Nguyễn Văn Tường c̣n có cung hàm là thái phó.
Bài thơ có nguyên văn như
sau:
[VÔ ĐỀ]
Huyền vũ lâu tiền măn địa sương
Dũ
phong đ́nh nguyệt thái thê lương
Sơn
xuyên cố quốc âm t́nh cải
Nhung mă toàn gia đạo lộ trường
Không quá Tây môn bi thái phó
Thùy ṭng Bắc hải vấn trung lang
Ngu
uyên thử nhật vô tiêu tức
Trường đoạn thanh khê bích ngẫu hương.
Mai Sơn
NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
(1868 - 1925)
Huyền Vũ lầu không đặc lớp sương
Trăng sân gió cửa quá thê lương
Non
sông cố quốc bao thay đổi
Gươm ngựa toàn gia vạn dặm trường
Không (*) đến cửa Tây thương thái phó
Ai
về biển Bắc hỏi trung lang (**)
T́m
trời đáy biển (***) không tin tức
Đứt
ruột sen khe lộ ngó hương.
Chu Thiên Hoàng Minh Giám
(1904 – 1995)
dịch thơ
(*)
Không: cái hư không, tức là Trời.
(Không
và thuỳ [:ai], tiểu đối với nhau).
(**)
Làng Trung Lương bên sông Bến Hải?
Quan
chức thượng nguồn trung thành (trung lang)?
Có lẽ là
hai chức danh đối với nhau theo phép tiểu đối.
(***)
Ngu uyên: phương mặt trời lặn, chứ không phải là đáy biển!
++ Cũng chẳng nghèo mà cũng
chẳng sang
Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng
+++ Theo cuốn Tự Phán của Phan Bội Châu (Nxb. Văn hoá – Thông
tin tái bản, 2000, tr. 142 – 144): Mai Lăo Bạng là một linh mục Thiên Chúa
giáo. Ông có tham gia vào Duy Tân hội và Quang Phục hội của Cường Để và Phan
Bội Châu. Tổng cộng số thời gian Mai Lăo Bạng bị chính quyền Trung Hoa, Xiêm
La, chịu áp lực của Pháp, bắt giam, và bị chính thực dân Pháp bắt tù, lưu
đày ở Côn Đảo là gần mười lăm năm. Mai Lăo Bạng là một người yêu nước, hoạt
động chống Pháp, nhưng vẫn là một linh mục Thiên Chúa giáo, và theo lời Phan
Bội Châu, “một đời Cụ v́ thương xót đồng bào, ngậm cay nuốt đắng, vào tội ra
tù, thiệt là tín đồ của Dê Du vậy” (sđd., tr. 144). Dê Du chính là Chúa
Jésus, người đă chống đế quốc La Mă xâm lược của các çésar một cách “ôn hoà”,
trong lịch sử Do Thái, được chép lại trong Kinh Thánh.
Trong cuốn Tự Phán, Phan Bội Châu xác nhận những điều trên. Tuy nhiên, cụ
Phan cho rằng Mai Lăo Bạng là đại biểu của Giáo hội Thiên Chúa giáo; điều đó
là không thể chính xác được, v́ chính các cố đạo thực dân Tây (Pháp, Tây Ban
Nha), vốn nắm các chức sắc trong “giáo hội Thiên Chúa giáo Việt Nam”, đă cải
tạo tư tưởng yêu nước, chống Pháp của Mai Lăo Bạng, đồng thời chúng đe doạ
Mai Lăo Bạng sẽ bị vạ tuyệt thông (bị rút phép thông công, bị cô lập) (*a).
Do đó, rơ ràng Mai Lăo Bạng hoạt động độc lập, không tuỳ thuộc vào cố đạo
thực dân Pháp, Tây Ban Nha. Ngoài ra, cũng trong Tự Phán, Phan Bội Châu có
viết: “Tôi khi chưa gặp Cụ, chưa chụp bóng bao giờ, đến lúc hoan nghênh Cụ,
tôi mới cùng Cụ chung nhau chụp một bức ảnh. Người Pháp biết được ảnh tướng
tôi là từ lúc đó” (sđd., tr. 144). Xin hiểu câu này, trong điều kiện máy ảnh
c̣n thô sơ, chưa có ống kính tối tân hiện đại, việc mật thám chụp ảnh lén là
rất khó; chỉ có thể chụp ảnh trong hiệu ảnh. Chúng tôi nghĩ rằng, việc Pháp
có được ảnh Phan Bội Châu để truy nă hẳn là ngẫu nhiên.
++++ Trong cuốn Tự Phán, sđd., tr. 232 – 236, tiểu mục “Giao
thiệp với người Nga và thấy sự xảo quyệt của họ”: Vào năm Canh thân (1920),
cụ Phan Bội Châu có tiếp xúc với phái đoàn cán bộ Liên Xô do Voitisky làm
trưởng đoàn. Cụ Phan cho đoàn cán bộ Liên Xô là xảo quyệt, khi họ đề nghị cụ
đứng vào hàng ngũ những người cộng sản quốc tế và tuyên truyền về cách mạng
vô sản cho nhân dân Việt
Nam.
Nhưng về sau, theo nhiều nhà nghiên cứu, cụ Phan Bội Châu lại viết tác phẩm
Chủ nghĩa xă hội, tán thành phong trào cách mạng vô sản này, với niềm hi
vọng lớn.