CẢM THỨC LỤC BÁT
1
Cảm thức lục bát được
thấm đượm, khơi mở và h́nh thành từ tiếng ru bên vành nôi, từ câu hát điệu
ḥ bên luỹ tre xanh.
Ca dao hầu hết được sáng
tác, truyền miệng với thể lục bát và lục bát biến thể. Thi ca dân gian –
những vần, những nhịp thơ, cất lên từ ruộng rẫy sông nước – đă được tiếp
thụ, phát triển trong ḍng “văn học bác học”. Trong đó nổi bật lên là
Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc. Truyện thơ
Lục Vân Tiên cũng tiếp thụ thể vè (1) dân dă với mục đích thiết
thực và muôn đời, ấy là luân lí. Rồi lại đến lượt tiếng thơ bác học trở
thành tiếng ru bên vành nôi, thành câu hát điệu ḥ nuôi dưỡng đất nước và
tâm hồn Việt Nam.
Lục bát, song thất lục
bát đều khởi nguồn từ ca dao, từ giọt mồ hôi trên dảnh mạ, mái chèo.
2
Trong hàng vạn, hàng
triệu câu ca dao, số lượng lục bát được gieo vần trắc (2) chiếm một tỉ lệ
nhỏ. Đó là những cặp lục bát có khuynh hướng trở thành tục ngữ hoặc đă là
một bài thơ hai câu hoàn chỉnh.
Ṭ ṿ mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi.
Và:
Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Đêm năm canh chầy thức đủ vừa năm.
Nếu câu lục bát vần trắc
được phát triển thêm, nó phải trở về vần bằng (2). Đó là một điều hết sức
thú vị!
Vần trắc, nhịp chẵn ở thể
thơ bốn chữ hoặc thể thơ tám chữ với nhịp 4\4 trở về với lục bát vần bằng
cũng tạo một rung cảm thẩm mĩ! Sau này những bài thơ thể tự do trong kháng
chiến của Yên Thao (Nhà tôi), Hoàng Cầm (Bên kia sông Đuống),
với các đoạn lục bát trữ t́nh sâu lắng, đă kế thừa từ “Trước bến Văn
Lâu…” của Ưng B́nh Thúc Giạ Thị, mà Ưng B́nh đă tiếp thu từ “Đ̣ từ
Đông Ba, đ̣ qua Đập Đá…” của người dân sông nước xứ Huế.
Anh nói với em như dao chém vào đá (4\5)
Như rạ (rựa) chém vào đất (2\3)
Như mật rót vào tai (2\3)
Bây giờ em nỡ nghe ai
Để anh lên xuống Đông Đoài cực chưa!
Bài trên, vần rơi vào
nhịp chẵn nhưng câu thơ th́ ở nhịp lẻ. Và độc đáo là hai câu kết lại trở
về lục bát vần bằng!
Cũng mô thức ấy, các câu
thất ngắt nhịp (*) thuần Việt, vần trắc nhịp lẻ, đă tổ hợp với lục bát vần
bằng thành một chỉnh thể:
Áo xông hương \ của chàng vắt mắc
Đêm em nằm \ em đắp lấy hơi
Gửi khăn, gửi túi, gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đằng xa.
Song thất lục bát tuyệt
hay như thế và các cặp câu thất vần trắc nhịp lẻ thuần Việt thế này th́
trong kho tàng ca dao tục ngữ, có nhiều vô số:
Tóc em dài \ em cài hoa lí
Miệng em cười \ hữu ư, anh thương!
Và:
Gái thương chồng \ đương đông buổi chợ
Trai thương vợ \ nắng quái chiều hôm.
Mở rộng khía cạnh vần
trắc, nhịp lẻ đó, chỉ nhằm nêu rơ một đặc điểm nổi bật sau đây trong thể
lục bát: Vần bằng; mặc dầu không nhiều, vẫn có lục bát vần trắc. Vả chăng,
đây là một điều cần suy nghĩ: lục bát biến thể, song thất lục bát vẫn là
lục bát, cho dẫu song thất lục bát đă phát triển thành một thể riêng với
các luật tắc ổn định và đạt được những thành tựu rực rỡ.
3
Lục bát thuần tuư, dù một
bài hai câu chỉ gồm 14 âm tiết (14 chữ) hay cả một trường ca, một tiểu
thuyết thơ dài vài ngàn câu, vần gieo chỉ là vần bằng.
Thanh bằng, cả vần lưng,
vần chân, xoắn xuưt, quấn quưt, nương níu từ đầu đến cuối bài thơ hay
truyện thơ như một ḍng chảy liên tục không đứt đoạn. Nếu có trường hợp
cần đứt đoạn như một thủ pháp nghệ thuật th́ phải dùng điệp từ đảo trang
để nối mạch thơ:
Trong đầm ǵ đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Đó là trường hợp đặc biệt
(cũng có thể lí giải bài trên đă được gieo điệp vần từ “vàng”, chữ
thứ hai ở câu lục).
Và cũng cần lưu ư, điệp
vần, ngay cả không đổi vần (vần: âm chính + không hoặc có âm cuối) trong
nhiều câu liên tiếp cũng làm hạn chế nhạc tính của lục bát. Là ḍng chảy,
nhưng lục bát không thể độc vận. Độc vận là cái chết của con sông lục bát!
Vần chân và cả vần lưng (cước
vận, yêu vận) đều ở thanh bằng, dù thanh bằng không dấu (phù b́nh thanh)
hay mang dấu huyền (trầm b́nh thanh). Ở câu tám, có cả vần lưng lẫn vần
chân, nhưng nhất thiết phải một không dấu và một dấu huyền.
Dù lục bát là thể thơ
cách luật ít câu thúc, lại rất uyển chuyển, phóng khoáng, nó vẫn có hai
yêu cầu phải tuân thủ: vần bằng và phân biệt thanh trong vần bằng.
Đây là một bài thơ có thể
phá vỡ tất cả luật hài thanh cơ bản nhưng vẫn có thể chấp nhận được?
Bây giờ ngoài ḿnh mưa chưa
Ngày vàng se, ngày đang thưa môi cười
Sông người dưng, sông trôi xuôi
Con như lênh đênh theo đời từ lâu!
Khi không, đâu hay nơi đâu
Bay ngang trời, bay bay màu mây sương
Tay ôm đầu thương quê hương
Ơi lều tôn run bên đường mưa bay!
(TXA.,
bản thử nghiệm)
Tất cả các âm tiết trong
bài đều ở thanh bằng!
Về thanh và vần, xin mở
một ngoặc đơn ở đây:
Chênh vênh lênh đênh đường đang xa
Bóng tôi đă khuất với quê nhà
Cát ch́m cát trắng nắng hoa
Lá về cội cũ xanh oà chồi non.
(TXA.,
trong tập KBNVB.)
Đó là song thất lục bát
thử nghiệm với hai câu thất gieo vần chân thanh bằng!
Nh́n chung, về vần và
thanh, cảm thức lục bát thiên về âm hưởng nhẹ nhàng và tinh tế. Điều đó
phản ánh khả năng thẩm âm và phối thanh rất tinh của người Việt, thể hiện
ở một ngôn ngữ giàu âm thanh, chú trọng đến âm thanh (6 thanh) mà những
nhà thơ hôm nay thừa hưởng và nỗ lực nâng cao.
4
Về nhịp. Nhịp lục bát
biến hoá rất tự do để biểu đạt cảm xúc nội dung, nhưng nh́n chung, nhịp
chẵn (6 // 6 \ 2 hoặc 6 // 4 \ 4; 6 // 2 \ 6; 2 \ 4 // 6 \ 2 …) vẫn chủ
đạo trong từng câu. Trong từng bài hay trọn trường ca, trọn tiểu thuyết
thơ, nhịp sáu // tám (câu chẵn ngắn // câu chẵn dài) nối liền nhau
vẫn là nhịp tổng thể của âm hưởng toàn tác phẩm. Nhịp thơ không những
khoan thai, êm đềm, ríu rít, bay bổng… mà c̣n có thể gay gắt, thắt, nén,
tắc, nghẹn, bùng nổ, dồn dập… nhưng vẫn trên nền tảng âm hưởng chủ đạo ấy.
Ngỡ như lục bát đơn điệu nhưng ḱ thực rất phong phú và đa dạng.
Nhịp cũng thể hiện ở cách
gieo vần. Ngoài cách gieo b́nh thường, c̣n có thể gieo vần lưng ở chữ thứ
hai hoặc chữ thứ tư của câu tám (nhịp chẵn):
Núi cao chi lắm núi ơi
Núi che mặt trời không thấy người thương.
Dù ở câu tám phá thể, vần
vẫn phải rơi về chữ kế áp cuối và chữ cuối câu để giữ nhịp chẵn trước khi
dứt câu:
Chăn đơn nửa đắp nửa không
Cạn sông lở núi, ta đừng quên nhau
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn, môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc giấu hay là bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ quên cha, quên cửa quên nhà
Làm cho quên cả đường ra lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.
Và:
Đất bụt mà ném chim trời
Ông Tơ bà Nguyệt xe dây, xe nhợ nửa vời ra đâu!
Cho nên cá chẳng bén câu
Lược chẳng bén đầu, chỉ chẳng bén kim […]
Tại sao vần phải là thanh
bằng và nhịp phải là nhịp chẵn trong lục bát thuần tuư? Tại sao, trong
song thất lục bát, ngay ở hai câu thất, dù gieo vần ở nhịp lẻ, nhưng hai
câu thất ấy phải bắt vần vào nhau thành cặp như một điều luật? Và nhạc thơ
thắt, nén ở hai câu thất lại duỗi, đằm ở hai câu lục bát; rồi nhạc điệu ấy
cứ tuần hoàn một cách linh hoạt suốt cả bài thơ, khúc ngâm?
Có khiên cưỡng chăng, khi
nói cảm thức lục bát thiên về âm hưởng nhẹ, đằm, sâu lắng và tinh tế?
Cảm thức ấy c̣n thể hiện
một nhân sinh quan gắn bó, quấn quưt lẫn nhau và không thích những ǵ
không có đôi có cặp. Trên nền tảng ấy, cảm thức lục bát vẫn dung chứa hết
mọi cung bậc t́nh cảm, mọi cường độ cảm xúc, mọi sắc độ tâm trạng… Nhạc
điệu lục bát gợi nên cảm giác về sự hài hoà giữa tính cương (độ căng, nặng)
với tính nhu (độ giăn, nhẹ) khi tổ hợp với các câu thất thuần Việt? Và
ḷng nhân hậu cũng thể hiện trong cảm thức này: dù biến thể hay đă trở
thành song thất lục bát, th́ cuối khổ, cuối bài hoặc thiên, cũng phải là
hai câu lục bát; như thể ở đời, dẫu trúc trắc trục trặc đến mấy đi nữa,
th́ cuối cùng cũng mong đằm thắm, nhẹ nhàng, quyến luyến, gắn bó vào nhau.
5
Khả năng biểu đạt, chuyển
tải của lục bát hầu như phong phú, tinh tế vào bậc nhất. Như đă nói, lục
bát trường thiên có thể dài tối đa, hàng ngàn câu, thậm chí hàng vạn câu,
nếu muốn, tuy nhiên cũng có nhiều bài ca dao hoàn chỉnh chỉ hai câu 14 âm
tiết (14 chữ), ngắn hơn hai-ku của Nhật (17 âm tiết). Tiểu thuyết lục bát
rất dài nhưng không đơn điệu, và có thể chuyển tải một cốt truyện giàu
kịch tính với một dung lượng hiện thực lớn – đan xen vào các tuyến nhân
vật và các cảnh đời (Truyện Kiều của Nguyễn Du, Sơ kính tân
trang của Phạm Thái…) hoặc mơ mộng, diễm t́nh (Hoa tiên của
Nguyễn Huy Tự…). Trường ca lục bát như một khúc ngâm trữ t́nh sâu lắng, da
diết (Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính…), như một hùng ca, sử ca
thấm đượm cảm xúc (Việt Bắc, Nước non ngàn dặm của Tố Hữu; có thể
kể thêm một trường ca song thất lục bát của ông: Ba mươi năm đời ta có
Đảng…), như một thiền ca ẩn dật, lánh đục về trong, thanh thoát, bay
bổng (Đưa em t́m động hoa vàng của Phạm Thiên Thư…). Thơ lục bát
trữ t́nh, châm biếm th́ vô số (từ ca dao: “Đêm đêm ra đứng bờ ao…”; “Lỗ
mũi mười tám gánh lông…” đến các tác phẩm hiện đại). Lục bát không
những có thể biểu đạt, chuyên chở một cách tinh tế, nhuần nhị, cô đọng mọi
tâm trạng buồn sầu, thắm thiết, u hoài, dịu ngọt, mà c̣n rất tuyệt vời với
mọi loại thơ, với tất cả phạm trù mĩ học tuỳ theo lí tưởng thẩm mĩ của nhà
thơ trước hiện thực đời người, xă hội.
Đêm khuya đèn tắt tối thui
Bếp ai c̣n lửa cho tôi lùi củ khoai!
Đó là một bài ca dao hai
câu tục tĩu lại rất nghệ thuật! Và c̣n có thể nhận định, trong trường hợp
câu ca dao này, tính dung tục bất chấp tính thiện! Đây là một trong những
hạn chế của văn học dân gian cần ghi nhận. Hay ta hiểu lệch?
Suốt ngày nằm ngả nằm nghiêng
Không ai nằm sấp trên miềng (ḿnh) cho vui! (**)
Bài lục bát hai câu dân
gian này, khó hiểu lệch được nữa!
Câu thơ lục bát cao sang
của Nguyễn Du có khi cũng biểu hiện và phản ánh những ǵ rất ghê tởm nhất
ở lầu xanh!
Này con học lấy nằm ḷng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề!
6
Tuy nhiên như đă tŕnh
bày, lục bát là tiếng ru, chính xác hơn là mang âm hưởng của nhịp ru d́u
dịu, buồn buồn, trầm lắng, đều đều. Là tiếng ru, dù ru con, ru em bằng sử
thi:
Chàng về thiếp một theo mây
Con thơ để lại chốn này ai nuôi?
th́ vẫn thao thức, chiêm
nghiệm; hoặc:
Ru con con ngủ cho lành
Cho mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiếm (quế? phượng?) cho chồng đi quân.
th́ lục bát vẫn mang âm
hưởng trầm hùng, đằm sâu.
Lục bát uyển chuyển, mềm
mại, linh động, phát xuất từ cốt cách của một dân tộc tự tin và bản lĩnh,
hiếu hoà và nhân bản, suốt bốn ngh́n năm.
Lục bát gợi âm hưởng miên
man, mênh mang, không đứt rời, và tưởng chừng hoà nhập vào bao la cho dù
chỉ ở một bài ca dao cực ngắn (thanh bằng).
Đó là triết lí Việt Nam
và Phương Đông.
Thâm trầm. Thâm thuư. Nhẹ
nhàng. Ung dung. Tự tại.
Từ cái chung Việt Nam,
đặc sắc Việt Nam, c̣n có những phong cách lục bát rất riêng của từng tác
giả, góp phần làm phong phú thêm tính cách dân tộc và châu lục.
V́ lục bát là cảm thức,
phong thái, cốt cách và điệu hồn Việt Nam, là bản sắc Việt Nam, tôi yêu
lục bát. Tôi yêu lục bát từ vô thức, tiềm thức đến ư thức, từ cảm tính của
trái tim đến lí tính của tâm linh. Và tôi nghĩ người Việt Nam nào cũng vậy.
Tuy nói đến thơ Việt Nam
là nói đến lục bát, nhưng tâm hồn lục bát Việt Nam c̣n dung nạp và lan toả
vào các thể thơ khác, từ thơ Đường Trung Hoa, hai-ku Nhật Bản đến xon-nê
châu Âu, khi thể thơ ấy nằm trong tay các nhà thơ Việt Nam. Từ bản lĩnh ca
dao (gồm nhiều thể thơ, kể cả thơ tự do dân gian; mà lục bát là chủ yếu),
với bản lĩnh lục bát và song thất lục bát bác học (dù hiện nay đang có
khuynh hướng “quên lăng” song thất lục bát, mà chỉ nở rộ lục bát!), họ có
thể Việt hoá tất cả.
TRẦN XUÂN AN
(Bài đă đăng trên tạp chí
Cửa Việt, số 27 [tháng 12. 1996]).
Chép lại trên máy vi tính,
xong lúc 10 giờ 09 phút, ngày 02 tháng 11. HB4
(20. 09. G. thân HB4).
(1) Vè, trong cụm từ
liệt kê bốn thể văn vần có diễn xướng “thơ, ca, ḥ, vè”, là một thể
chỉ chú trọng đến yếu tố vần điệu. Đó là một h́nh thức tuyên truyền, kể
chuyện, b́nh luận dễ nhớ, dễ hiểu. Vè xuất hiện nhiều ở miền Bắc và miền
Trung.
(2) Vần trắc: vần mang
thanh trắc; vần bằng: vần mang thanh bằng.
(*) Trong bài này, tôi sử
dụng dấu sổ nghiêng về phía trái (\) như một kí hiệu ngắt nhịp của
câu thơ, ca dao. Khác với các bài trước, kí hiệu hai dấu sổ nghiêng về
phía phải (//) đă được dùng để ngắt ḍng thơ thay v́ phải xuống ḍng;
kí hiệu ngắt ḍng (//) đó đi đôi với kí hiệu ngắt nhịp (\) này. (Chú thích
của tác giả, khi đưa bài viết vào tập).
(**) Ngô Vưu (giáo viên
Trường PTTH. chuyên Quốc Học, Huế) sưu tầm.
MỤC LỤC
1. Đọc thơ Nguyễn Công
B́nh. 7
2. Đọc thơ Vơ Văn Luyến.
14
3. Đọc thơ Nguyễn Tiến
Đạt. 23
4. Đọc thơ Phan Văn Quang.
33
5. Đọc thơ Nguyễn Tấn Sĩ.
41
6. Đọc thơ Vơ Nguyên. 55
7. Đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
62
8. Đọc thơ Hoàng Phủ Ngọc
Tường. 77
9. Đọc thơ Hà Linh Chi.
94
10 & 11. Phụ lục:
- Một vài yếu tố
trong sáng tạo & tiếp-nhận-đồng-sáng-tạo. 106
- Cảm thức lục bát.
108
12. Mục lục. 113
13. Danh mục tác phẩm của
tác giả. 114.
Ngày 18 tháng 11 năm
2004
(07. 10 Giáp thân HB4)
tôi đă gửi trọn tập
bản thảo này cho
bạn Y THI & anh HỒ
THANH THOAN (Tạp chí Cửa Việt),
nhân dịp hai anh vào
TP. HCM. công tác.
Một ngày khoảng cuối
tháng 11. HB4 (10 Giáp thân HB4),
tôi cũng đă gửi
INRASARA trọn tập bản thảo này.
Cuối năm Giáp thân (đầu
năm 2005),
tập bản thảo này cũng
được gửi đến PGs. Ts. HUỲNH NHƯ PHƯƠNG.
Ghi chú:
Vào giữa tháng 3 đến đầu tháng 4. 2005, tôi đă đổi bản thảo này từ hệ mă
và font VNI-Centur sang hệ mă và font Unicode, Arial.
Ngày 6 & 7 tháng 7. 2005, tôi đă tŕnh bày lại (những chỗ in nghiêng…),
v́ khi sử dụng phần mềm vi tính VietSpell để đổi hệ mă và font, footnote
chuyển sang endnote, những chỗ in nghiêng bị sai lệch, sai lệch cả những
chữ kế cận.
Về số trang, cũng có sự sai lệch, cần chỉnh sửa lại.
TXA.
Trần
Xuân An
Sinh
ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc:
Kinh (Việt Nam);
Quê gốc:
Quảng Trị;
Tốt
nghiệp ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học
tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện
nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu tại TP. HCM.
(Hội
viên Hội Nhà văn TP. HCM.)
Tác
phẩm đă xuất bản và đă đăng kí bản quyền tại Cục Bản quyền tác giả văn học
nghệ thuật Việt Nam:
1. Nắng và mưa, thơ, Hội
VHNT. Quảng Trị, 1991.
2. Hát chiêu hồn ḿnh,
thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
3. Tôi vẫn ở trên đường,
thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
4. Lặng lẽ ở phố, thơ,
Nxb. Trẻ, 1995.
5. Kẻ bị ném vào băo, thơ,
Nxb. Trẻ, 1995.
6. Hát với đời ơi thương
mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
7. Quê nhà yêu dấu,
trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
8. Có một nơi lá măi xanh,
tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
9. Ngôi trường tháng
giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
10. Sen đỏ, bài thơ ḥa
b́nh, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
11. Phụ chính đại thần
Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử,
trọn bộ 4 tập, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 2004.
12. Ngẫu hứng đọc thơ,
phê b́nh văn học, NXb. Văn Nghệ TP.HCM., 2005.
Tác
phẩm đă hoàn tất bản thảo:
13. Mùa hè bên sông, tiểu
thuyết, 1997; bản đă sửa chữa và bổ sung, 2001. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương,
thơ.
15. Giọt mực, cánh đồng
và vở kịch điên, thơ.
16. Nước mắt có vị ngọt,
tập truyện ngắn, 1999.
17. Tiểu luận (bài đăng
trên Tcđt. Giao Điểm), 2005
Soạn phẩm
& biên
khảo đă hoàn tất bản thảo:
18. Thơ Nguyễn Văn Tường
(1824 – 1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn –
nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và
sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
19. Tiểu sử biên niên Ḱ
Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường, “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa
thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn
chi tiết, phần I, 2001.
20. Những trang Đại Nam
thực lục về Ḱ Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các
sự kiện thời ḱ đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ
Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
21. Nguyễn Văn Tường
(1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”,
khảo luận và phê b́nh sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
22. Suy nghĩ về một số
vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 2004.
Tặng
thưởng, giải thưởng:
1. Báo Văn nghệ giải
phóng, 1975.
2. Giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.