ĐỌC THƠ HÀ LINH CHI
TXA.
1
Cuối cuộc họp rút kinh
nghiệm về số đầu tiên tập san Văn nghệ B́nh Trị Thiên, tôi mới biết người
đàn ông đă ngoài ba mươi tuổi, có nước da ngăm ngăm nâu và khá vạm vỡ, vừa
phát biểu kia, là nhà thơ Hà Linh Chi. Anh nói, xin anh em gửi bài về Đài
Phát thanh tại Huế, nhưng nhớ đừng gửi những bài “lên gân”, bởi người biên
tập là anh, vốn không thích “lên gân”. Anh dùng hai chữ đó với ư mỉa mai
sự hô hào suông như “khẩu hiệu” trong thơ. Đó là ư kiến sau khi có người
đă phê phán sự “bít bùng” trong nghệ thuật. Tôi suưt nữa phải bật cười,
bởi sau Ngày Thống nhất (1975), như nhiều người đă viết, ở thời điểm đó,
những người chiến thắng cùng với tuổi trẻ chưa thật sự vướng vào cuộc
chiến tranh, rất lăng mạn, loại lăng mạn “hướng ngoại”, thường vẽ
vời trong ước mơ những ǵ rất to tát, viển vông về xă hội, về Đất nước,
quê hương, nên rất dễ duy ư chí. Anh Hà Linh Chi vốn là một người khá
“ngang xương” như thế.
Đó là năm 1976, lần đầu
tiên tôi gặp anh. H́nh như sau đó không lâu, nhà thơ Hà Linh Chi cũng vào
Lâm Đồng tiếp tục công tác ở Đài Phát thanh tại Đà Lạt.
Tháng 09. 1978, sau khi
tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, tôi được bổ nhiệm vào Ty Giáo dục Lâm Đồng.
Tôi vẫn chưa gặp lại anh Hà Linh Chi. Năm học đầu tiên, tôi về giảng dạy
tại Lộc Ngăi, huyện trà Bảo Lộc (*). Cũng chưa có dịp nào gặp lại nhau!
Năm học sau đó, tôi về Trường Phổ thông cấp III Bảo Lộc, nhưng lại dạy tại
phân hiệu Đa Huoai của trường, tít tận Chiến khu D cũ. Vẫn chưa gặp lại!
Đến hai niên khoá ở hai vùng khai hoang lập ấp, thường được gọi là vùng
“kinh tế mới”, tôi mới được lên giảng dạy tại Trường Phổ thông trung học (cấp
III) Đức Trọng, nơi có sân bay Liên Khương và thác Prenn, thác Gougar nổi
tiếng.
Năm 1980, chúng tôi mới
gặp nhau lần thứ hai, sau lần đầu ở Huế vào năm 1976.
Lần gặp lại, anh bảo, mấy
năm qua anh bị các vị lănh đạo “hành hạ”, “lên dây cót” đủ việc, từ thu
mua lương thực cho đến những việc không phải là thơ ca, báo chí, phát
thanh ǵ ráo. Tôi không ngạc nhiên, v́ biết nét cá tính khá ngang tàng một
cách nghệ sĩ của anh, thế nào cũng bị lận đận bởi các vị cấp trên vốn ưa
chuộng khuôn phép.
Từ đó, anh Hà Linh Chi
với tôi rất thân t́nh, như thể bạn bè, đến mức thỉnh thoảng vẫn có thể
cùng nhau rượu chè, cười cợt, châm biếm hơi suồng să một cách đau xót về
đủ thứ chuyện tiêu cực trên đời, hoặc khoái chí đến mức có thể cười ha hả
hay xuưt xoa thích thú về những ǵ tốt đẹp ngoài xă hội, mặc dù anh lớn
hơn tôi đến 16 tuổi.
“Trong cuộc sống thường ngày, Hà Linh Chi là người sôi nổi,
nồng nhiệt với bạn bè, không hề che giấu bản chất con người ḿnh. Phía sau
những ứng xử có lúc như ào ạt là một một trái tim thơ nhân hậu, một trí
tuệ sắc sảo, một cá tính độc đáo khắc sâu vào tâm trí những người đă có
dịp gần anh” (1).
Đó là một nhận định rất
đúng về nhà thơ Hà Linh Chi.
Nhưng tiếc thay, hơn 10
năm rồi, kể từ ngày 21. 06. 1994 ấy, anh không c̣n nữa trên cơi đời này, ở
tuổi 54 c̣n đầy sức sáng tạo! Ngày anh về với thế giới hư vô, với ḷng Đất
Mẹ tại Đà Lạt, tôi đang ở thành phố Hồ Chí Minh. Nhận được điện tín báo
tang do anh Trần Ngọc Trác gửi về, lúc nấm mộ anh đă đắp lại rồi, tôi chỉ
biết thắp một nén nhang hướng mặt lên thành phố hoa quỳ vàng ấy.
Liệu tôi có thể viết ǵ
về thơ của một người đă thành thiên cổ!
2
H́nh dung ra cuộc đời nhà
thơ Hà Linh Chi, có lẽ phải khởi đầu từ một bài thơ hồi tưởng của chính
anh. Có những khoảnh khắc, những buổi, những ngày măi c̣n đọng lại trong
trí nhớ thời tấm bé, do được tận mắt chứng kiến hoặc được kể lại một cách
t́nh cờ bởi người lớn, măi về sau, trở thành một dấu ấn màu son không phai
mờ trong tâm khảm. Hẳn những ai sáng suốt đều nghĩ rằng tâm thức con người
không bao giờ là một tấm bản sao vô tri được chụp lại từ thế hệ trước cùng
huyết thống. Tuy nhiên, với sự suy tư, chiêm nghiệm và có thể cả khảo
nghiệm của ḿnh về lịch sử, Hà Linh Chi đă có một Buổi sáng ấy (2),
không thể nào quên:
“Con chỉ nhớ khi con vừa năm tuổi / Ngày tháng trôi qua trong
sóng biển, c̣i tàu / Đường phố chợ có bao giờ bước tới / Cha đốt củi trên
rừng, mẹ ra hói t́m rau // […] Mặt trời lên rồi bốn bề trống thúc / Trong
Lăng Cô ra, ngoài Đá Bạc vào / Bên Tư Hiền cũng thuyền giăng mỏ giục /
Rừng cờ, rừng người cuồn cuộn vàng sao! // […] Con đâu hay đó là Ngày Độc
lập / Tháng Tám mùa thu cờ đỏ sao vàng / “Cờ pha máu chiến thắng mang hồn
nước…” / Cha bước trong đoàn người cùng hoà nhịp ca vang // Bốn mươi lăm
năm một đời con theo bước …” (**).
Bài thơ được anh viết vào
năm anh đă 50 tuổi, vào một ngày gần cuối tháng tám, 1990. Đó là năm ở
Đông Âu, một loạt nước xă hội chủ nghĩa đă sụp đổ, sự biến Thiên An môn ở
Bắc Kinh cũng đă diễn ra, và ở Liên Xô, một không khí rối loạn đă bắt đầu
dữ dội hơn. Nhưng Hà Linh Chi vẫn muốn giữ trọn vẹn, không hề có chút dao
động, như ai đó đă toan lau chùi đi dấu ấn màu son Cách mạng Tháng Tám và
cả quăng đời, như anh đă thưa với hương hồn cha ḿnh, “bốn mươi lăm năm
một đời con theo bước” với Tiến quân ca.
Sau 09 năm kháng chiến
chống Pháp, dưới ngọn cờ Tháng Mười tại Nga (1917) và ngọn cờ Tháng Tám
Việt Nam (1945), ở huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên, có một người chiến sĩ
cách mạng đă dẫn con trai ra Miền Bắc, sau hiệp định Genève (20. 07.
1954). Hà Linh Chi chính là đứa con trai ấy, mới bước vào tuổi 14 được gần
03 tháng (3). Không phải ngẫu nhiên mà về sau, trong tập thơ của ḿnh,
theo nếp tư duy thuở bấy giờ (dẫu trong số bạn anh lắm người chê trách là
di căn nhược tiểu (***)), vẫn có vài ba lần anh nhắc đến hai chữ
Tháng Mười viết hoa:
“Rực rỡ đoá quỳ vàng / Đưa cao nguyên vào nắng / Nghiêng
nghiêng vầng nón trắng / Óng vàng mái tóc Nga […] / Cùng vun gốc tỉa cành
/ Cho Tháng Mười bông trổ / Màu ba dan thắm đỏ / Trên tay cô gái Nga …”
(4).
(Đà Lạt, 10. 1983)
Từ năm 14 tuổi, Hà Linh
Chi ra Miền Bắc học tập phổ thông, rồi đại học. Sau đó, giảng dạy tại một
trường cấp III ở Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc. Giă từ ngành giáo dục, dự một
khoá bồi dưỡng viết văn, năm anh 31 tuổi (1971), Hà Linh Chi cùng đồng đội
vượt ngang sông vĩ tuyến mười bảy, có tên Hiền Lương (Bến Hải), để vào
chiến trường Miền Nam, vừa cầm bút, vừa cầm súng:
“Cầu bảy nhịp c̣n hai /bom từ trường đợi nổ / ḍng sông mùa
mưa lũ / bến bờ không bóng thuyền // Bên kia làng Trung Giang /cỏ lau vàng
hoang dă / dây kẽm gai hầm hố / b́m bịp kêu lạnh đồng //Đồn Đốc Miếu chông
chênh / đỏ bầm từng ụ đất / dáng người đi cúi mặt / dưới tầm súng ca nông
… […] / nước bồi hồi dưới ngực / tôi bơi qua ḍng sông” (5).
(Hiền
Lương, 1971)
Hai năm liền, Hà Linh Chi
chiến đấu trên chiến trường Quảng Trị. Bút pháp thơ của anh h́nh như đă
định h́nh, rơ nét, là thiên về kí sự. H́nh như anh rất chú ư việc
miêu tả, và qua đó, thi thoảng mới bày tỏ cảm xúc, suy tư của cái tôi trữ
t́nh một cách trực tiếp. Bài thơ Gió từ La Vang (6) được anh khắc
từng nét bút mạnh và sắc:
“Trời La Vang gió giật từng cơn / Cát quất như roi / Lá mài
như kiếm / Tre xát vào nhau ớn lạnh / Lào rào kẽm sắt / Lảng rảng mái nhôm
/ Gió từ La Vang tràn sang Cửa Việt / Mùa hanh heo gợi nhớ đồng bằng //
[…] Cát bỏng hầm sâu / Lửa xém đồng bằng / Máu chảy xuống, gió lùa khô tím
ngắt / Gió miết đồi tranh lá sắc / Cỏ c̣n giữ nước mà cỏ thành chông / Gió
khô cong sắc mặt cháy đồng hun / Rít ầm ù hoang khô vùng hậu địch …”.
(Quảng Trị,
1972)
Bài thơ Màu đỏ đất Cùa
(7) cũng theo một bút pháp thơ kí sự như thế, có đoạn anh “chép”
nguyên lời nhân vật vào thơ, như một nhà-báo-thơ tại mặt trận, có chỗ
lại miêu tả một cách khá ấn tượng về sự khốc liệt, dữ dội, tàn bạo của
chiến tranh, bất chấp cấm kị “tự nhiên chủ nghĩa” (thường khiến người đọc
yếu vía mất hồn):
“Hăy nh́n tận mắt anh ơi! / Vườn xưa tuổi nhỏ / Bây giờ lau
lách cỏ tranh / Bom toạ độ nổ thành miệng phễu / Vườn mẹ / Mênh mông chói
đỏ ngút ngàn… // Ḷng chảo Cùa như miệng cối xay / Nghiến nát màu xanh
thành máu đỏ / Mỗi hạt tiêu cũng hoá thành hạt lửa […] // … Màu đỏ đất Cùa
– màu lửa trái tim”.
(Cùa, tháng 8.
1972)
Đến tháng 08. 1973, nhà
thơ Hà Linh Chi mới về lại quê hương Thừa Thiên của anh. Anh đă biểu hiện
thay v́ tự biểu hiện, thông qua nhân vật cái tôi trữ t́nh là một người đă
kinh qua gần suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ:
“Về Thừa Thiên, ta về Thừa Thiên / Đất mẹ quê cha một đời cay
cực / Núi Truồi ơi, hai mươi năm đánh giặc / Ta bạc tóc này cho núi măi
xanh tươi”.
Thiên về miêu tả
“hướng ngoại”, ít khi xoáy cái nh́n vào chiều sâu nội tâm ḿnh, Hà
Linh Chi vẫn có cách miêu tả rất đỗi cảm thông về cái nghèo Trung bộ,
nghèo v́ sông suối nhiều, nhưng độ dốc cao và trong văn vắt, ít phù sa,
lại chịu đựng chiến tranh hơn bất ḱ quê xứ nào:
“Bao giờ em đến miền Trung / đừng mặc áo hoa mà buồn con nước
/ nếu tuổi thơ em qua nhiều mất mát / em lại gặp ḿnh trên mặt ḍng sông”
(8).
Cuộc chiến tranh kết thúc
để sáng bừng lên một Ngày Thống nhất (1975). Hà Linh Chi viết về Ḍng
sông sau cơn lũ (9), có nhiều đoạn với thủ pháp xới lật; bắt đầu là
mặt quá khứ, “phù sa từ hố bom / trôi qua vườn nhà mẹ / màu tím ngắt
trong vườn / theo ḍng sông ra bể […] // phù sa thấm vào rễ / quả hừng lên
nỗi đau”; để rồi ở một đoạn khác, anh lật lại để nh́n rơ mặt hi vọng
về tương lai, “phù sa từ hố bom / sẽ vươn xanh mầm lá / phù sa từ vườn
mẹ / nở nụ hồng môi em […] // phù sa ch́m trong rễ / cho hồng lên nụ cười”.
H́nh như khi viết về mặt nỗi đau, thơ Hà Linh Chi có nét mới mẻ hơn.
Viết về mặt hi vọng, thơ anh lại rơi vào khuôn sáo! Phải chăng đó cũng bởi
nguyên nhân chung của một thời? Rất nhiều, quá nhiều ḍng thơ viết về hi
vọng đến mức không c̣n ǵ là mới mẻ nữa ở địa hạt này, trong khi khổ đau
vẫn c̣n nhiều “đất hoang” chưa khai phá. Tuy vậy, không phải Hà Linh Chi
không có những câu sinh động: “em là ngọn nến hồng / soi đêm dài băo tố
/ trong veo, sau mùa lũ / em là ḍng sông Hương”.
Thế là một quăng đời thơ
khác đă mở ra, không c̣n súng đạn và máu xương, mà chỉ là màu xanh cây lá,
sông nước và những mùa vàng ruộng rẫy.
3
Nếu trong tập thơ tuyển
Lời đá của Hà Linh Chi, chỉ có vỏn vẹn 08 bài trước Ngày Thống nhất,
th́ thời gian suốt 19 năm hoà b́nh sau đó, có đến 47 bài được chọn.
Thi pháp thơ thiên về kí
sự, miêu tả ngoại vật và ngoại cảnh như thể Hà Linh Chi là một
nhà-báo-thơ, không chỉ là thi pháp của anh trong chiến tranh. Hoà b́nh,
từ 1975, vẫn một thi pháp ấy, anh đi suốt 19 năm, cho đến ngày anh mất,
21. 06. 1994.
Nhà thơ Hà Linh Chi khác
với những nhà thơ “hướng nội”, chỉ chú tâm biểu hiện những cảm xúc,
tư tưởng nội tâm. Thơ “hướng nội”, tất nhiên h́nh ảnh thơ cũng mượn
ở ngoại giới, nhưng là h́nh ảnh ngoại giới bất ḱ. Nhà thơ “hướng nội”
sống, mở mắt thật to và mở hết mọi giác quan khác của ḿnh để thu nhận
hiện thực xă hội, thiên nhiên bên ngoài, và lại lắng nghe âm vang của hiện
thực dội vào ḷng, rồi cứ tích chứa măi trong ḷng, cho đến khi nội tâm
xuất hiện một tâm trạng, một cảm xúc – tư tưởng, bấy giờ mới viết thành
thơ bằng những h́nh ảnh ấn tượng sẵn chứa trong tâm thức. Thơ “hướng
nội” không miêu tả ngoại giới mà chủ yếu là nhà thơ tự biểu hiện nội
tâm. Nói chung, thi pháp “hướng nội” ấy hoàn toàn khác với thi pháp
của những nhà thơ “hướng ngoại” như Hà Linh Chi.
Cũng như các nhà thơ
“hướng ngoại” khác, Hà Linh Chi trải rộng tâm hồn ḿnh trên những vùng
đất ḿnh sống hay có dịp đi đến. Vùng đất Nam Tây Nguyên có tên sau Ngày
Thống nhất (1975) là Lâm Đồng (gồm Lâm Đồng cũ và Tuyên Đức cũ), cùng tỉnh
lị của riêng nó là thành phố Đà Lạt, chính là nơi trái tim thơ của nhà thơ
Hà Linh Chi ôm trọn theo nhịp đập trong lồng ngực anh. Hầu như nhà báo Hà
Linh Chi đă đi hết mọi nẻo đường, từ đường nhựa phố phường, liên huyện,
liên xă đến đường đất, đường ṃn của các làng thôn, buôn bản trong tỉnh.
Đến mỗi nơi, anh ghi nhận và đồng thời cảm xúc, do đó, hầu hết mọi nơi
trong tỉnh đều có thơ Hà Linh Chi viết về. Thơ anh như một loại bút kí
thơ hay kí sự thơ. Như đă viết, tôi thấy yếu tố miêu tả con
người, nhất là khung cảnh, sự vật ở các huyện, xă thuộc tỉnh Lâm Đồng,
trong thơ anh, chiếm một tỉ lệ khá lớn.
Tuy vậy, ở các nhà thơ,
thật sự không có một sự phân biệt rạch ṛi “hướng ngoại” với
“hướng nội”. Xếp nhà thơ này hoặc nhà thơ kia vào khuynh hướng nào,
chỉ là sự tương đối, căn cứ vào thi pháp chủ yếu mà nhà thơ ấy thường
xuyên vận dụng. Ở Hà Linh Chi, anh là nhà thơ chủ yếu nghiêng rơ về phía
“hướng ngoại”, nhưng với những đề tài như hoài niệm quá khứ chẳng
hạn, anh không thể không tự biểu hiện nội tâm của ḿnh theo khuynh hướng
“hướng nội”.
Màu hoa tuổi trẻ (10)
và hơn 10 bài thơ khác của anh về đề tài hoài niệm
là mảng thơ “hướng nội” của anh.
“không biết mùi hoa hay hương tóc em / thơm rất lâu trên áo
tôi hồi đó / ta chia tay chiến tranh và tuổi trẻ / hương hoàng lan đôi lúc
thoảng về” (10).
Hành hương (11)
là một bài rất cảm động trong thơ hoài niệm của anh:
“… Hành hương về cứ cũ / Cây cỏ phủ lối ṃn / Anh gục đầu gợi
nhớ / Vật kỉ niệm ḿnh chôn // […] Mạch đất ấm bàn tay / Bớt đi chiều gió
lạnh / Bất chợt từng cơn gió / Bất chợt từng tiếng ai…”.
Thực ra, chiến trường Trị
– Thiên mới là nơi anh cầm súng chiến đấu, chứ không phải Nam Tây Nguyên,
cụ thể là các làng ngoại thành Đà Lạt. Nhưng Hà Linh Chi, với sứ mệnh nhà
thơ, thơ anh có khi chỉ là lời nói thay cho những ai luôn hoài niệm,
thương tiếc đồng đội nhưng không hề làm thơ, tuy rất cần nhà thơ nói hộ
những cảm xúc, suy tưởng giùm họ. Hoặc những người lính xuất ngũ, nay đang
đi khai hoang lập ấp, họ cũng rất cần được nhà thơ nói thay tâm sự của họ,
chẳng hạn như bài Tâm sự mgười đội trưởng (12). Hà Linh Chi có
nhiều bài “hướng nội” theo kiểu nói thay như thế. Nếu dùng thuật
ngữ, th́ đó là biểu hiện (nói thay, nói về đối tượng) bằng thủ pháp
tự biểu hiện (nhập thân vào đối tượng để nói giúp – cái tôi trữ
t́nh của tác giả thực ra là cái tôi của đối tượng). Ở trường hợp này, ấy
là “hướng nội” nhưng thực chất là “hướng ngoại”.
Đề tài nhân tộc thiểu số,
cụ thể là các sắc dân bản địa lâu đời như K’Hor, Chiau Mạa, Chil, ở Hà
Linh Chi, trở thành một mối quan tâm thường xuyên của trái tim anh. Bài
Giai điệu của đá viết về loại đàn đá nổi tiếng của Tây Nguyên là một
thành công của anh:
“bao cuộc đời trên mạch đá rêu phong / bao ngọn lửa tàn vào
hoang lạnh / bao chiếc lá ch́m trong suối vắng / sớm nay về trong tiếng đá
vang ngân // sớm nay về trên nét mặt của em / địu con sau lưng cầm chày
trước ngực / gơ lên đá điệu tâm hồn cháy rực / cho rung vang toàn vẹn
những tấm ḷng // đá hát thành lời cho trời cao hơn / sợi dây rừng rung
rinh ch́m nổi / âm thanh cao cho tóc em xanh măi / âm thanh trầm từ mắt mẹ
thẳm sâu // những năm động rừng đá chẳng ṃn đâu / đói muối dời buôn theo
người bền bỉ / những giai điệu âm thầm chung thuỷ / lại rung lên cùng đất
nước hồi sinh // em hăy nhập vào xa thẳm thời gian / từ tiếng gơ rất êm
trên mặt đá / nghe lịch sử ngh́n năm về rạng rỡ / bên ché rượu cần và ngọn
lửa t́nh yêu” (13).
Ở giờ phút thưởng ngoạn
ấy, dĩ nhiên Hà Linh Chi không nghe hoặc đọc lịch sử qua những bài trường
ca sử thi hoặc những truyền thuyết, anh cảm nhận qua tiếng đàn đá được gơ
bằng chày, qua cả những rung cảm của người đàn bà trẻ địu con vốn là nghệ
sĩ dân gian ấy. Lịch sử ngh́n năm Nam Tây Nguyên thật sự là một thứ sử vô
ngôn vô tự và sinh động. Lịch sử ấy chỉ hiển hiện ở những con người đang
sống. Mỗi người là một trầm tích đồng thời là một tiếp nối. Âm nhạc của họ
là một biểu hiện của lịch sử ấy. Và lịch sử ấy từ ngh́n năm vọng về nhưng
cũng toả ra cho đất và trời hiện tại, cho mái tóc xanh trẻ tuổi và ánh mắt
sâu người già. Hà Linh Chi miêu tả sức bền của đá, thực ra qua năm, bảy
thanh đá kia, Hà Linh Chi thể hiện ḷng người thuỷ chung và nghị lực chân
cứng đá mềm của người K’Hor, Chiau Mạa, Chil bao đời lên rừng xuống rẫy.
Ché rượu cần và ngọn lửa đêm miền núi sương lạnh vẫn là h́nh ảnh kết đọng
của lịch sử Nam Tây Nguyên. Rượu cần nồng ấm và ngọn lửa t́nh yêu, đâu chỉ
là yêu đương đôi lứa, mà chính là t́nh yêu sâu thẳm thời gian, bát ngát
không gian Nam Tây Nguyên!
Dẫu là người Kinh đặc sệt
giọng nói Thừa Thiên, không pha lẫn chất Bắc hay chất Nam, Hà Linh Chi vẫn
thể hiện được chính ḿnh như là một người đồng bào thượng du Nam Trung bộ
– Nam Tây Nguyên, với tất cả chiều sâu của trái tim ḿnh. Hai đại từ
“em” và “mẹ” của anh rất đỗi ruột rà!
Miêu tả,
một đặc điểm của thi pháp “hướng ngoại”, được nhà thơ
Hà Linh Chi vận dụng thành công một cách nhuần nhị trong bài Giai điệu của
đá này. Cái tôi trữ t́nh của tác giả chỉ thấp thoáng ở b́nh diện phụ, rất
mờ nhạt, đúng như ư định nhà thơ là cố giấu ḿnh đi, hay đúng hơn là
người đọc biết có nhà thơ đang miêu tả, cảm xúc, suy nghĩ “hướng ngoại”,
nhưng hầu như chẳng thấy nội tâm riêng tư của nhà thơ ở câu thơ nào; cho
đến đoạn kết của bài thơ, mới thấy lời nhắc nhở đầy thương mến của tác giả.
Trong khi đó, ở b́nh diện chính, h́nh tượng xuyên suốt, bao trùm, toả sáng
khắp bài thơ vẫn là người đàn bà trẻ – nghệ sĩ dân gian sắc tộc ấy và
chính nội tâm của cô mà nhà thơ cảm nhận được.
Anh c̣n có một bài viết
về một ngôi trường ở một buôn làng nhân tộc ít người. Đây là bài thơ anh
gửi tặng tôi (TXA.), khi tôi đă rời bỏ khỏi Trường Phổ thông trung học Đức
Trọng. Anh viết về một nơi (trường Ka Đơm) nhưng ḷng hướng về một nơi (trường
Đức Trọng). Có thể đây là một h́nh thức không phải hiếm thấy ở các nhà thơ,
như thể Nguyễn Gia Thiều mượn chuyện các cung nữ trong cung cấm để oán
trách vua chúa không biết đến bốn chữ “chiêu hiền đăi sĩ” (Cung oán
ngâm khúc). Tất nhiên “so sánh” nào cũng khập khiễng. Nhưng dẫu vậy, ở
nghĩa nổi (hiện nghĩa), bài thơ vẫn là một thành công khác của anh về đề
tài các nhân tộc miền núi:
Nơi mùa xuân em qua
(14)
(Gửi TXA.)
“mùa xuân này em có về Ka Đơm / con đường dốc đầy cỏ gai
giăng mắc / sương trắng lạnh sau giờ tan lớp / hoa trinh nữ hồng ngọn nắng
đầu tiên // em đi rồi con đường dài hơn / cu rúc kêu buổi chiều khắc khoải
/ nước củ ḿ mắt bạn bè nheo lại / t́m dáng em bên bếp lửa nồng nàn // pạp
(@) nhớ em ngồi chẻ lạt đan sàng / kể chuyện em dạy trẻ thơ đọc chữ / tóc
lộng gió và nụ cười rộng mở / trời mưa to vẫn ra lớp ra trường // nơi
quăng đường tôi đă gặp em / bên chiếc cầu em vô t́nh rơi bút / ḍng sông
ấy vẫn dịu hiền trong suốt / mực từ bút em xanh măi theo ḍng… // Ka Đơm
bây giờ con đường cao hơn / băi śnh lầy đă xanh um lúa nước / những ngôi
nhà đỏ tươi mái lợp / hoa cà phê thơm suốt những lô vườn // bên ché rượu
cần vít cong hơi men / hương mùa gặt quyện tṛn chiêng sáo / những cô gái
cởi trần sàng gạo / đôi vú căng tṛn lắt lay // tiếng trẻ học bài xanh
mướt hàng cây / hoa quỳ vàng xốn xang đồi núi / như ngọn lửa, ḍng sông em
nhắn gửi / nhớ thương hoài trong sắc gió Ka Đơm”.
(Đà Lạt, 19.
11. 1983)
Viết về những vùng đất
khai hoang lập ấp (vùng “kinh tế mới”) là đề tài thứ ba Hà Linh Chi quan
tâm. Là một nhà thơ có quê gốc là Thừa Thiên – Huế, Hà Linh Chi viết về
Huế bằng những câu thơ rất Huế. Có cả mươi bài rất Huế ở Lâm Đồng như thế.
Đúng như anh Nguyễn Cửu Sử, một trong vài vị lănh đạo của khu kinh tế mới
Hương Lâm (sông Hương và Lâm Đồng) hồi ấy thường nói với bà
con cô bác ở đó: “Đem Huế vào theo, chứ không phải bỏ Huế mà đi”.
“sau những ngày mở đất /ngọt ngào mùa sinh sôi / từ cao
nguyên tít tắp / đă nghe Huế chào mời // […] chẳng có chi mua bán / cũng
ưa đi chợ hoài / để nghe Huế nói cười / từ cao nguyên đầm ấm” (15).
“Sương xuống nhiều nên chưa rơ mặt em / Sông chảy giữa hai bờ
rừng lặng lẽ / Nghe giọng ḥ biết em c̣n trẻ / Điệu mái nh́ nghe hát ở cao
nguyên // Anh ra bờ để nghe rơ giọng em hơn / Tiếng quê hương nơi miền đất
lạ / Nón nghiêng nghiêng và lời ca thoảng gió / Tưởng như ḿnh đắm giữa
sông Hương …” (16).
Nhà thơ Hà Linh Chi luôn
hướng cảm xúc – suy tưởng của ḿnh ra với cuộc sống như thế. Nhưng cuộc
đời luôn tồn tại những niềm vui, ít ra cũng là niềm vui trong dự cảm, hi
vọng, giữa thời đoạn cực ḱ khó khăn gian khổ của đất nước, đồng thời ở
bên cạnh hoặc ở phía mặt kia của niềm vui, dự cảm lạc quan là những đau
đớn, những bức xúc, v́ những khó khăn đó một phần là do chủ quan của những
người lănh đạo cấp này, cấp kia. Với trái tim nhà thơ, trước bối cảnh như
vậy, Hà Linh Chi không thể vô tâm, vô tư và anh không thể không có một
mảng thơ thứ tư, ấy là thơ thế sự.
Nỗi mong của người lượm củi (17)
hồi mới được Hà Linh Chi
viết ra ở dạng bản nháp, đă khiến những vị lănh đạo và những viên “cớm”
rất bực bội. Do đó, bài thơ không được anh trau chuốt lại! Tuy hơi thô sơ,
nhưng chính vẻ thô sơ như chất dân dă đó cùng ư tưởng táo bạo của nó, hồi
1982, chưa được cởi trói (****), lại lan truyền khá nhanh bằng cách
“xuất bản miệng” hoặc chuyền tay bản chép.
“… đă từng xanh tốt một thời / đă từng toả mát cho đời bóng
râm / yếu mềm găy trước băo giông / chẳng rơi xuống đất c̣n mong nỗi ǵ /
đă khô ḍng nhựa đi về / nặng thân cây lại c̣n đè chồi non / đă không hoa
lá bóng tṛn / vui làm nhánh củi về đun cho rồi // ước chi trận gió nổi
dài / cành khô rơi xuống được nồi cơm sôi”.
(Đà Lạt, 25.
02. 1982)
Đó là phản ứng của một
nhà thơ có trách nhiệm trước hiện thực xă hội với những khó khăn thật,
do nguyên nhân khách quan (t́nh trạng hậu chiến, lại bị cấm vận), và những
khó khăn giả, do nguyên nhân ở phía chủ quan, ấy là óc thủ cựu và
tham quyền cố vị của các vị lănh đạo, mặc dù trong qua khứ họ cũng rất có
công lao. Sự kiện bài thơ này ở Lâm Đồng cũng như sự kiện Phạm Thị Xuân
Khải ở báo Tiền Phong sau đó vài ba năm. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rơ,
Hà Linh Chi hoàn toàn xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm của chính anh,
để viết bài thơ đó.
Người thợ mộc và vân gỗ cẩm lai (18)
là một bài thể hiện một
cách h́nh tượng quan điểm dùng người rất cổ điển, theo kinh nghiệm nhiều
đời truyền lại (dụng nhân như dụng mộc) và theo cái tâm trong sáng,
v́ trách nhiệm chung, v́ số phận của mỗi con người, mỗi trí thức cụ thể.
Nhà thơ Hà Linh Chi viết:
“Ba đời làm thợ mộc / Tôi thuộc ḷng từng thớ gỗ trên tay /
Thẳng làm thước, cong làm giằng xay / Súc gỗ quư có thể nào bỏ được? //Anh
hăy nh́n thật kĩ / Nét hoa văn anh chưa gặp trong đời / Thứ gỗ này ngoài
quê ḿnh không có … //[…] Những đường vân ḱ lạ / Chỉ cần đẩy nhát bào sắc,
nhẹ / Cả sắc trời khoáng đăng sẽ bừng lên // […] Nét hoa văn ngh́n năm
rừng già / Trong tầm mắt nh́n xa / Và, giọng trầm thiết tha người thợ: / -
Mỗi loài cây có đường vân riêng / Làm sao để từng thớ gỗ / Được hiện h́nh
toàn vẹn nét hoa văn!”.
Bài thơ Khoảng sáng
trên trần nhà (19) đích thực là một bài thơ “đau đời” (nói theo
từ ngữ hồi đó):
“có một ngày bất chợt quăng trời xanh / ập vào mắt tôi cái
nh́n trẻ nhỏ / tôi bước đi – như người vỡ nợ / ôi ḍ phong lan – anh có
lỗi với em! // tưởng có lúc ch́m vào lăng quên / đất dưới chân ngỡ ngàng
xa lạ / những dăy phố buồn thiu quán trọ / tôi chỉ c̣n là nỗi đau của em
// tôi nh́n lên khoảng sáng mênh mông / viên ngói vỡ nên chẳng c̣n lăng
kính / một ngôi sao ban ngày lóng lánh / cuối trời xa // có tiếng chim qua
khoảng trống dội về / nghe trong vườn màu địa lan thắm đỏ / lặng im ngọn
lửa / tôi làm thơ trong khoảng sáng riêng // và tôi nói với ḿnh / như rễ
cây nói vào ḷng đất / sau mây là ngôi sao xanh / soi thấu mọi điều trên
bàn tay anh”.
Phải nói ngay rằng, đây
là bài thơ tâm trạng “hướng ngoại” thành công nhất của nhà thơ Hà
Linh Chi. Anh đau nỗi đau đời, đau v́ cuộc đời tŕ trệ, trầm uất, bởi
những nguyên nhân sâu xa của chính thói đời… Chính ṿm trời cao trong veo
kia đă cho anh một cái nh́n của trẻ nhỏ, tuy vô tư nhưng đầy oán trách và
lắm dấu hỏi. Cái nh́n ấy tự xoáy vào anh, tạo nên trong trái tim anh một
vết thương đau đớn, và anh biết nhận trách nhiệm về ḿnh, vô h́nh trung
cũng phê phán những ai như ḿnh. Bầu trời th́ thế, c̣n đất đai dưới chân?
Anh không thể lẫn trốn trong lăng quên! Đất không nhận anh là người con
ruột thịt của đất nữa, như thể bởi chính anh đă góp phần làm Đà Lạt
điêu tàn, hoang phế đến thế! Từ tâm trạng dằn vặt đó, bằng cách gút lại tứ
thơ trong các ẩn dụ: viên ngói trên trần nhà đă vỡ, vỡ cả lăng kính của
mắt nh́n, để xuyên qua khoảng sáng chân thực ấy, anh nh́n thấy rơ một v́
sao xanh biếc của thiên nhiên đất trời đang nh́n anh, thấu hiểu anh, đọc
hết những bài thơ anh đang viết. Điểm sáng thẩm mĩ hay c̣n gọi là
nhăn tự của bài thơ chính là hai chữ lăng kính. Theo thành ngữ,
người ta thường nói, nh́n đời qua lăng kính màu ǵ, cuộc đời sẽ là màu
đó (tươi hồng, xanh mát hay vàng chói, đen tối?). Theo đó, cái nh́n
không lăng kính có nghĩa là cái nh́n không bị định kiến làm đổi
màu, sai sự thật. Hăy nh́n thẳng vào thực chất xă hội, con người bằng
cái nh́n chân thực như xă hội, con người đang hiện hữu. Đừng nh́n bằng
lăng kính định kiến. Đừng nh́n bằng lăng kính xuyên tạc. Đừng
nh́n bằng lăng kính giáo điều. Nhà thơ Hà Linh Chi muốn mọi người
đừng bị ư hệ và niềm tin tôn giáo (qua biểu tượng lăng
kính) làm cái nh́n sai lệch, bị “nhuộm màu”!
Đối với nhà thơ Hà Linh
Chi, đó là một trong vài bài thơ quan trọng nhất và thành công nhất của
anh. Hà Linh Chi, bằng thơ của ḿnh, đă góp phần tác động, mở đường cho
công cuộc Đổi mới (1986) và Cởi trói (1987). Sống với trái
tim nhạy cảm và một trí tuệ sắc sảo, anh nh́n thẳng vào hiện thực xă hội,
và hiện thực ấy đă thức ngộ cho anh như thế.
Ngoài mảng thơ viết về
chiến trường Trị – Thiên trước Ngày Thống nhất (1975), tôi những muốn
gọi những mối quan tâm thơ của anh về thực trạng cuộc sống xă hội, ở Lâm
Đồng và khắp đất nước (giai đoạn 1976 – 1994) bằng bốn tên gọi: hoài
niệm chiến tranh, tấm ḷng nhân tộc, đất mới, và nỗi đau đời,
như một cách cô đọng lại những ǵ thơ anh đă thể hiện, và tôi đă cảm
nhận.
Chung quy, nhà thơ Hà
Linh Chi là một thi sĩ hướng trái tim và mắt nh́n của ḿnh ra với cuộc
sống xă hội, chứ không chăm chú vào bên trong nội tâm riêng tư. Quảng Trị,
Thừa Thiên – Huế và chủ yếu là Lâm Đồng là ba vùng đất anh sống và làm thơ.
Chỉ riêng mảng thơ trong giai đoạn 19 năm (1976 – 1994) anh sống và viết
tại vùng đất Nam Tây Nguyên ấy, với những ǵ anh quan tâm, không c̣n là
thơ của riêng một tỉnh mà đă thành thơ của cả một giai đoạn đất nước trong
cơn đau trở dạ thời hậu chiến.
Rất tiếc, anh đă mất cách
đây mười năm.
Mười năm qua, hiện thực
Đổi mới và Cởi trói lại có những vấn đề của nó. Những vấn
nạn thuộc về giai đoạn trước đó chưa được giải phóng một cách thật triệt
để, mà càng trói buộc thêm những ǵ cần tháo mở (như nội dung khái niệm
nền độc lập, tự do, dân chủ chân chính, gồm cả quyền độc lập, tự do, dân
chủ cụ thể cho mỗi con người…), lại tháo mở những ǵ lẽ ra phải ḱm chế (như
thói ăn chơi, “đầu độc” tuổi trẻ…). Ṿng lẩn quẩn của cuộc sống xă hội đôi
khi y hệt một câu Kiều, “cởi ra rồi lại buộc vào như chơi”; và khi đă bị
thắt vào, phải có một xung lực nội tại để nó lại tháo ra… Phải chăng biện
chứng của hiện thực nước ta là thế? Tôi cảm thấy tiếc biết bao khi anh Hà
Linh Chi không c̣n có thể làm thơ được nữa, bởi cái chết đă cướp anh đi.
Dẫu sao, thơ anh và những mối quan tâm của anh về cuộc sống Lâm Đồng và cả
nước vẫn c̣n đó trên những trang sách, trong bao tấm ḷng bè bạn.
Làm sao quên được anh Hà
Linh Chi!
Tôi măi c̣n nhớ các tuyển
tập thơ nhiều tác giả thuở ấy, Đất gọi thầm, Như anh em một nhà, và
sau đó, khi tôi đă rời khỏi Lâm Đồng, là Đà Lạt, thơ. Mấy bài thơ
tôi viết tặng anh, về sau, tôi đă in lại trong các tập thơ riêng đă xuất
bản, trước hết là như một cách lưu giữ những kỉ niệm khó quên…
Làm sao quên được anh Hà
Linh Chi!
4
Gặp nhau
Kính
tặng anh Hà Linh Chi
“rất lâu mới gặp nhau
/ cánh tay như sóng biển / trên vai tôi, sóng choàng / tôi như ḥn đảo nhỏ
/ đứng lặng trong nỗi mừng // rất lâu mới gặp nhau / chén rượu chiều sóng
sánh / bài thơ “chiều củi rụng” (*****)/ đập vào vách đá im / nước mắt
tràn trong đêm // rất lâu mới gặp nhau / cười đó rồi khóc đó / có khóc th́
khóc thầm / có cười th́ cười vỡ / sóng vỗ bờ đảo xanh // rất lâu mới gặp
nhau / rượu cuồng đêm tâm sự / sáng ra c̣n làm, ăn / sóng c̣n ru đời nữa /
đảo c̣n vui chim muông // rất lâu mới gặp nhau / để biển thêm tiếng sóng /
đảo xanh v́ mai sau / biết thế nào mà hẹn / tóc c̣n xanh trên đầu…”.
1982
Ngôi nhà bên thung lũng sương
Kính
tặng anh Hà Linh Chi và chú Hồ Phú Diên
“từ một nơi xa xôi tôi trở về thành phố / con dốc cao, đồi cỏ mượt, nắng
vàng/ hoa! / hoa rung vào ḷng bao thanh âm rạng rỡ / nghe hương mùa thơm
trong lá thông / tôi lại về với nơi tôi thường nhớ / gió bồi hồi chiều ơi
yêu thương // ngôi nhà bên thung lũng sương / chiều tháng tám, nắng đọng
lại đằng sau khung cửa / lồng ngực rộn ràng, ngón tay khẽ gơ / (anh chị ơi,
anh chị ơi, em đă về nhà) / và nắng ấm ùa ra… / tôi đứng ngẩn ngơ / giữa
những nụ cười quây quần rất trẻ / siết chặt tay tôi là những bàn tay tin
yêu nồng nhiệt thế / tôi biết nói ǵ, ân nghĩa ấy, bao la // dẫu giọng đọc
đă khàn đi sau hai mùa kháng chiến / ánh mắt vẫn trong ngần soi nắng xuống
trang thơ / ta hoà vào nhau từ mạch nguồn sâu thẳm / (ghềnh thác gian lao
để sâu lắng ḷng hồ) / tôi biết nói ǵ, ân nghĩa ấy, bao la // căn pḥng
đầy ắp tiếng thơ / vang vọng đêm rừng già thác đổ / vang vọng tiếng rơi
thầm của máu / tiếng reo xanh bên đường phố, sớm mai / cả tiếng thở dài
trong bóng tối, lẻ loi… // âm hưởng tự cơi người / cho mỗi trái tim rực đỏ
/ cho ḷng ta bồi hồi / tôi biết nói ǵ? thơ hăy nói giùm tôi! // và Đà
Lạt ơi! / thành phố rất thân yêu mà cả cuộc đời tôi / sao nhận hết vào
ḷng bao thanh âm rạng rỡ / sao hiểu hết con dốc cao, ngọn đồi xanh mướt
cỏ / sao nghe hết hương mùa thơm trong lá thông… / nếu chẳng đến với nơi
xa thành phố – / ôi những tấm ḷng từ nguồn mạch yêu thương // nắng hừng
đông ấm lên trong ngôi nhà đó / khung cửa mở ra mọi phía chân trời / tôi
lại đến với nơi tôi vẫn ở / chào thung lũng sương long lanh sớm mai”.
1982
Sau khi chép lại hai bài
thơ Gặp nhau và Ngôi nhà bên thung lũng sương vào bài viết
này, tôi lặng người đi, và cảm thấy không nên viết thêm một ḍng nào nữa,
v́ như thế cũng đă đủ để nhớ lại những kỉ niệm… Kỉ niệm, mười năm nay đă
là kỉ niệm trong niềm tưởng tiếc, kỉ niệm ấy biết nói thế nào cho đủ!
Tuy vậy, hi vọng là cũng
chẳng sao, nếu có thêm một vài câu như thể là ghi chú cuối bài này.
Lẽ ra, ở bài thơ Gặp nhau,
tôi phải rút gọn tứ thơ Nỗi mong của người lượm củi đúng như anh Hà
Linh Chi viết, là “bài thơ ‘chờ củi rụng’”, chứ không phải
‘chiều củi rụng’. Nhưng sử dụng chữ “chờ” sẽ khiến những vị
lănh đạo thuộc loại thủ cựu và maoisme đang tại vị thời bấy giờ
chạnh ḷng, chột dạ. Chưa hẳn các vị ấy biết đến bài thơ của tôi và bài
Nỗi mong của người lượm củi tôi đă nhắc tới, nhưng các viên “cớm” sẽ
gây khó dễ, thậm chí là chụp xuống đầu chúng tôi những tai hoạ. Tốt nhất
là xem như củi đă rụng rồi sau đợt thanh lọc những cán bộ
các cấp bị đánh giá là maoisme, chẳng hạn như Hoàng Văn Hoan. Tôi
xem củi rụng cũng là một nỗi đau thuộc loại bi kịch về tranh giành
ảnh hưởng giữa hai cường quốc Nga và Trung, mặc dù tôi không thích những
kẻ như Hoàng Văn Hoan… Tôi chỉ nghẹn ngào khi nghe bài thơ Nỗi mong của
người lượm củi của anh Hà Linh Chi.
Thật sự, tôi và anh Hà
Linh Chi chỉ ước ao các vị lănh đạo tỉnh sẽ cho thành lập Hội Văn nghệ Lâm
Đồng, để ra được một tập san văn nghệ, và chỉ có vậy. Nhưng thời bấy giờ,
đó là cả một vấn đề! Thật quá mức nghiệt ngă, hẹp ḥi, đến mức ai có chút
máu văn nghệ cũng phải xin rời khỏi Lâm Đồng hoặc bị đơm bẫy, bị ép, bị
đuổi khỏi tỉnh đó!
Mặt khác, t́nh h́nh tại
Lâm Đồng thời ấy c̣n có một luồng sức ép ngấm ngầm nhưng rất kinh khủng
khác nữa, chứ chẳng riêng phía các “cớm”. Đó là catholique… Có một
chi tiết xem ra cũng khá buồn cười: “cớm” (công an) hay catholique
cũng đều được viết tắt là CA.!
Về những kỉ niệm ở Lâm
Đồng và riêng tại Đà Lạt, tôi đă viết ít nhiều trong cuốn tiểu thuyết
Ngôi trường tháng giêng (*), qua phương thức hư cấu (thay đổi về tên
tuổi, nhân dạng, giọng nói và một vài chi tiết nhỏ khác), nhưng vẫn rất
thật. Nhân vật Cao Hồng Thứ, đó là anh Hà Linh Chi, và ông Vơ Phả không là
ai khác, mà chính là chú Hồ Phú Diên, một người vốn xem tất cả mọi
nguồn mạch của chủ nghĩa yêu nước, cho dù qua thác, qua ghềnh, rồi cũng
đều đổ về một sông, một hồ, một biển.
Trong tập Lời đá,
nhà thơ Hà Linh Chi có bài thơ Một câu thơ nửa chừng (20), viết về
một lần anh xuống Thuận Hải thăm chú Hồ Phú Diên, sau khi chú ấy chuyển
công tác về tỉnh đó, với lời đề tặng “Nhớ anh H. P. D.”.
“… Cái giọng anh rè khàn / qua bao mùa mưa nắng / vẫn bồi hồi
sâu lắng / vẫn tin yêu nồng nàn / trong gió lùa từng cơn…”.
Thế mà người trước, người
sau, hai người kính mến ấy đă trở thành thiên cổ!
Kỉ niệm trong niềm tưởng
tiếc, xin hăy cùng nén hương trầm toả ngát…
TP. HCM., khởi viết từ 06
giờ 59 phút, ngày 28. 10. HB4 (15. 09. G. thân HB4);
viết xong lúc 11 giờ 19
phút, ngày 29. 10. HB4 (16. 09. G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(1) Hà Linh Chi, Lời đá
(LĐ.), tập thơ, Lời giới thiệu, Nxb. Văn Nghệ TP. HCM. & Hội Văn
nghệ Lâm Đồng, 1995, tr. 4.
(2) LĐ., sđd., tr. 34 – 35.
(**) Những chữ đầu mỗi
ḍng thơ viết hoa hay không, tôi giữ nguyên theo cách tŕnh bày của tác
giả (hẳn Hội Văn nghệ Lâm Đồng & Nxb. Văn Nghệ TP. HCM. cũng giữ nguyên
như thế).
(3) LĐ., sđd., Lời giới
thiệu, tr. 3 & phần gấp b́a 1: Hà Linh Chi được sinh ra đời ngày 09.
10. 1940, mất ngày 21. 06. 1994.
(***) Đại để, ư nói: Nước
Việt Nam chúng ta mang “di căn nhược tiểu, nô lệ”, quá lệ thuộc vào
Nga Xô-viết [Cộng hoà Liên bang Xô-viết do Nga đứng đầu] (và Trung Cộng).
Diễn đạt theo ngôn từ minh xác của sử học: Chính v́ sự lệ thuộc đó, nên
một phân số không ít trong dân tộc Việt Nam ta không tham gia phong trào
Xô-viết Nghệ – Tĩnh (1930 – 1931), cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp
(1945 – 1954) dưới sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phân số nhân
dân ấy, từ đó về sau (1954 – 1975), lại bị kẹt giữa hai gọng ḱm lịch sử
“tả đạo” (Thiên Chúa giáo) và chủ nghĩa vô thần cộng sản, nên phải dựa vào
một bên để lần lượt bẻ găy hai gọng ḱm đó, theo phương cách nhu thuật.
Với tinh thần sử học xác thực và công bằng, tôi viết rơ ư tưởng này, ngơ
hầu giảm bớt sự ngộ nhận về những người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
thuần tuư, trước đây thường bị xếp chung nhất loạt là “ngụy”, và để góp
phần tạo nên niềm cảm thông, hoà giải dân tộc. Chỉ có lực lượng Thiên Chúa
giáo và những tên tay sai của thực dân, đế quốc mới đích thực là ngụy.
Những ḍng chú thích trên,
tôi viết thật rơ như vậy, mục đích chính là để người đọc cảm thông được
bối cảnh xă hội nước ta nói chung và riêng ở Lâm Đồng. Đó là một thời đoạn
trong xă hội vẫn c̣n nhiều sự xung đột tư tưởng, chính kiến một cách ngấm
ngầm hoặc khá lộ liễu, do đó không thể không tác động đến người làm thơ,
viết văn, trong đó có nhà thơ Hà Linh Chi. Có thể diễn đạt t́nh h́nh xă
hội – sáng tác bằng các thuật ngữ văn học: đó là bối cảnh xă hội với các
xung đột mâu thuẫn của nó trong tương quan với tâm thế sáng tác văn chương
của nhà thơ, nhà văn và mối quan hệ giữa họ với nhau…
Xin xem thêm: Trần Xuân An,
Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản đă sửa chữa, bổ sung lần thứ ba,
in vi tính ngày 19. 12. 2003 (trọn vẹn gồm 745 trang [kể cả phần chú thích,
phụ lục] và phần ngoài sách gồm 15 trang [một bài thơ viết về Quang Trung
cùng các chú thích sử học], cỡ sách 13 cm x 19 cm).
(4) LĐ., sđd., bài Cây
sô-la-num nở hoa, tr. 34 – 35.
(5) LĐ., sđd., bài Tôi
bơi qua ḍng sông, tr. 14 – 15.
(6) LĐ., sđd., tr. 5 – 6.
(7) LĐ., sđd., tr. 7 – 9.
(8) LĐ., sđd., bài Sông
suối miền Trung, tr. 14 – 15. Tôi dùng hai từ Miền Nam, Miền Bắc
(đều viết hoa) để chỉ hai phần Đất nước, bị chia cắt ở sông Bến Hải (1954
– 1975). Từ “miền Trung” ở đây tương tự như Trung Kỳ (B́nh Thuận –
Thanh Hoá).
(9) LĐ., sđd., tr. 22 – 24.
(10) LĐ., sđd., tr. 29 –
30.
(11) LĐ., sđd., tr. 44.
(12) LĐ., sđd., tr. 58 –
59.
(13) LĐ., sđd., tr. 76.
(14) LĐ., sđd., tr. 38 –
39.
(@) Pạp: bố (chú thích của
Hà Linh Chi).
(15) LĐ., bài Đi chợ may
xưa, sđd., tr. 67 – 68.
(16) LĐ., bài Điệu mái
nh́ nghe hát ở thượng nguồn sông Đồng Nai, sđd., tr. 67 – 68.
(17) LĐ., sđd., tr. 88.
(****) Sự kiện Cởi trói
do tổng bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng, năm 1987.
(18) LĐ., sđd., tr. 87.
(19) LĐ., sđd., tr. 91 –
92.
(*****) Xin xem bài Nỗi
mong của người lượm củi của Hà Linh Chi, chú thích (17).
(20) LĐ., sđd., tr. 47 –
48.
Đă gửi:
Chị Kim Chi (vợ anh Hà Linh
Chi, 30. 10. HB4)
(để được góp ư).