ĐỌC THƠ TẦN HOÀI DẠ VŨ
1
Cách đây ba mươi mấy
năm, tôi đă nghe nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ giải thích bút danh của anh (*).
Trong những năm gần đây, rất t́nh cờ, một lần nữa tôi lại được nghe lời
giải thích đó cũng của chính anh với những người bạn trẻ, bắt đầu làm thơ
khi đất nước bước vào cuộc Đổi mới ở thập niên 90 vừa qua. Cái bút
danh bốn chữ hơi đậm chất từ chương Hán học ấy, quả thật là một điển cố
trong văn học Trung Hoa. Anh mượn tứ thơ của Đỗ Mục đời Đường, bài “Bến
sông Tần Hoài” (1), nhưng thay thế h́nh ảnh sương khói, ánh trăng
đêm bằng h́nh ảnh mưa đêm (dạ vũ), để thể hiện tâm trạng và
tuyên ngôn cho đời thơ của ḿnh.
Mưa đêm trên bến
sông Tần Hoài,
tự thân h́nh ảnh
điển cố – thơ, có sáng tạo thêm ấy đă biểu đạt tâm trạng bi thiết của
người dân mất nước, thể hiện tuyên ngôn thuở bấy giờ của một người trẻ
tuổi làm thơ, quyết tâm dùng thơ ca để cảnh tỉnh, đánh thức những ai c̣n
ngủ vùi trong men say cùng tiếng hát phấn son trước vận nước đau thương.
Nhưng suốt ba mươi mấy
năm đọc rải rác thơ Tần Hoài Dạ Vũ, đến lúc này, sau khi đă đọc hết 03 tập
thơ anh đă xuất bản, tôi vẫn muốn tách bút danh ấy thành hai h́nh ảnh,
“bạc Tần Hoài” và “dạ vũ”. Tôi nghĩ, như vậy mới hiểu thật trọn
vẹn hai mảng thơ xuyên suốt và song hành trong đời thơ anh. Tần Hoài Dạ Vũ
là một nhà thơ thao thức, trăn trở về hiện thực đất nước, nhất là về Miền
Nam trước Ngày Thống nhất, đồng thời anh cũng là nhà thơ của những t́nh
yêu đương trầm buồn da diết, ít ra cũng rất đỗi ngậm ngùi.
Có thể nhà thơ Tần
Hoài Dạ Vũ sẽ không bằng ḷng về sự tách bút danh thành hai như một
cách nói đó. Tuy nhiên, theo tôi, có thật sự hiện hữu hai khía cạnh chính
yếu của một tâm hồn thơ như thế trong con người nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. Dĩ
nhiên hai khía cạnh ấy khác nhau, và mặc dù cũng có chút nào đó mâu thuẫn
nhau, nhưng không thể tách rời nhau một cách máy móc. Nh́n chung, con
người nào lại không là một khối mâu thuẫn! Nguyễn Du là một khối mâu thuẫn!
Maiakovski cũng là một khối mâu thuẫn! Có thể t́m thấy sự mâu thuẫn ấy
trong hầu hết các nhà thơ, nhà văn. Vả lại, sáng tạo thơ ca của một đời
thơ là cả một quá tŕnh. Quá tŕnh sáng tạo nào cũng không thể đứng yên,
mà luôn vận động trong mối quan hệ biện chứng giữa tâm hồn với bối cảnh
của từng thời đoạn xă hội. Do đó, tôi cũng không thể đọc thơ phản chiến và
thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ với cái nh́n tĩnh tại, phiến diện.
2
Thơ yêu nước tại
Miền Nam
c̣n được gọi bằng một cụm từ quen thuộc trước đây, thơ phản chiến. Tần
Hoài Dạ Vũ là một nhà thơ phản chiến, trực tiếp dấn thân vào hiện thực xă
hội Miền Nam, có thể kể từ bài thơ có ghi ngày tháng sáng tác sớm nhất
trong tập T́nh yêu và vầng trăng lửa (2): tháng 3. 1963. Tất nhiên
đó là một bài thơ của nhà thơ 17 tuổi, đă đăng trên báo chí thời ấy.
“… Những ngh́n năm
giết nhau / Thôi tôi mỏi tôi nhừ […] // Tôi ôm đầu âu lo / Tôi cong ḿnh
đau đớn / Chữ S thành từ đó / Rằng Việt Nam Việt Nam // Vô sản hay tư bản?
/ Độc tài hay tự do? / Tôi đui mù tâm thức / Mồm túa đầy cơn ho…” (3).
Đại từ “tôi”
trong bài Lời đất này không phải tác giả tự xưng. Đó là Đất. Đất
lên tiếng nói. Nhà thơ như một người thư kí ghi chép lại đúng y nguyên lời
của Đất. Qua đó, nhà thơ vẽ lại h́nh thể đất nước ta như một người ôm đầu,
hai chân như sắp khuỵu. Một cách khá bộc trực, thơ đă được viết như thế,
bởi xă hội đ̣i hỏi nhà thơ phải nói thẳng, nói rơ những trăn trở, thao
thức, băn khoăn trong chọn lựa. Thơ ca luôn gợi cho người đọc nhiều liên
tưởng. Đọc Lời đất, tôi c̣n h́nh dung ra, đất nước sau một thời
gian dài phân liệt Đàng Trong – Đàng Ngoài, phân liệt lương – giáo, lại
rơi vào t́nh cảnh chia cắt Đất nước, chia cắt bằng ḍng sông Bến Hải, một
ḍng sông hiền hoà bỗng dưng bị biến thành lưỡi dao khổng lồ, sắc lẻm và
đầy máu.
Tần Hoài Dạ Vũ thuở
bấy giờ đă nhận rơ, trên đất nước Việt Nam chúng ta, “mỗi thân thể hằn
vết thương chia cắt / mỗi linh hồn đau nhức chuyện phân li” cùng với
“máu anh em bè bạn hăy c̣n rơi” (4) và “thân đă rách giữa hàng rào
ư thức” (4).
Như khá nhiều nhà thơ
khác, sáng tạo thơ ca và nhận thức lịch sử, nhận thức thực tại đang từng
phút từng giây trở thành lịch sử hầu như đồng thời song hành và đồng nhất
trong một quá tŕnh. Ở tuổi mười bảy (1963), tuổi hai mươi (1966), trong
xă hội Miền Nam bị bưng bít thông tin, Tần Hoài Dạ Vũ bấy giờ, cũng như
nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn, đă nhận thức cuộc chiến tranh trên đất
nước ta chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn như thời Trịnh – Nguyễn phân
tranh. Ở bản nhạc Gia tài của mẹ trong tập Ca khúc da vàng,
Trịnh Công Sơn viết vào khoảng năm 1966: “hai mươi năm nội chiến từng
ngày”. Hai mươi năm nội chiến nào vậy? Bốn chữ số 1966 ghi dưới bài
thơ sau đây của Tần Hoài Dạ Vũ xác định rơ, đó là 1946 – 1966. 1966, đó
chính là thời điểm Tần Hoài Dạ Vũ viết bài thơ Tháng hai ở Huế (5),
và anh cũng xem hai mươi năm với “những giới tuyến, những màu cờ” ư
thức hệ ấy chỉ là một trận dịch hạch:
“… Chiến tranh quất
vào thân thể chúng ta bầm tím / Chiến tranh quất vào quê hương chúng ta
nghèo đói / Anh lớn lên th́ sự đă rồi / Mọi chuyện đă dàn bày hận thù đă
tới / Tới cùng những cơn mưa nước mắt / Tới cùng những giới tuyến những
màu cờ / Tới cùng lửa cháy tới cùng bom đạn / Tới đă hai mươi năm tới từng
số phận / Như trận dịch tới hôm nay…”
“Những giới tuyến,
những màu cờ”
không chỉ là Bến Hải
kể từ 1954 về sau!
Có thể vào tháng 2.
1966, Huế phải đối đầu với một trận dịch hạch có thật, nhưng khi vào thơ
Tần Hoài Dạ Vũ, dịch hạch thành một ẩn dụ, “ôi súng ôi bom ôi dịch hạch
/ những tháng ngày lấm lem // gặp nhau hỏi bàng hoàng thảng thốt / đă
chích chưa đă chích chưa đă chích ngừa dịch hạch chưa?”. Hẳn nhà thơ
khẳng định rằng, cuộc chiến trên đất nước đă đẩy dân tộc vào sự tương tàn
bằng súng đạn bom ḿn và bằng cả những thông tin tuyên truyền tâm lí chiến
độc hại, lan nhanh, xuất phát từ đài phát thanh, báo chí chế độ cũ. Không
dám đoan chắc, nhưng tôi cũng có cảm giác Tần Hoài Dạ Vũ khi viết, đă vận
dụng nhan đề của một cuốn sách khá phổ biến hồi đó, Dịch hạch
(1947) của Albert Camus (1913 – 1960), một nhà văn Pháp, với tư tưởng bế
tắc của ông ta, “cả thế giới là một trại tập trung và chiến tranh phi
nghĩa”, và chút tinh thần trách nhiệm của con người trước vận mệnh
chung mà ông kêu gọi. Trong chiều hướng ấy, ông thuộc vào hàng ngũ tiên
phong ở Phương Tây. Nói đúng hơn, cựu đảng viên Đảng Cộng sản Pháp Albert
Camus muốn t́m kiếm “con đường thứ ba”, ở giữa hai khối, cộng sản
và tư bản. Camus viết Dịch hạch để chống lại “vi trùng dịch hạch” của chủ
nghĩa phát xít. “Con đường thứ ba” này ở các nước thuộc địa như
Việt Nam vốn đă có trước cả Albert Camus với tính đặc thù trong điều kiện
xă hội cụ thể. Và dường như cũng trong luồng tư tưởng “mở ra con đường
thứ ba” đó, nhưng Tần Hoài Dạ Vũ vận dụng Dịch hạch phù hợp với
bối cảnh xă hội Miền Nam thời trai trẻ của anh. Huế của Tần Hoài Dạ Vũ là
“nơi chúng ta c̣n đối mặt bi thương”, đối mặt với những luận điệu
tuyên truyền của Mỹ ngụy. Không quay lưng với Tổ quốc, với Huế, thái độ đó
đă là một sự dấn thân, và anh không muốn chỉ ở riêng anh, anh làm
thơ như một lời kêu gọi, một sự chia sẻ trong tinh thần cộng đồng trách
nhiệm.
Cũng như Trịnh Công
Sơn và một phân số khá lớn trong lứa tuổi anh cũng như lứa tuổi của tôi về
sau, nhận thức, tâm t́nh, thái độ ấy là có thật như một trạng thái tinh
thần thế hệ đă thuộc về lịch sử của xă hội Miền Nam trước đây.
So với thơ yêu
đương, thường quen gọi là thơ t́nh, ở Tần Hoài Dạ Vũ, th́ những bài
thơ phản chiến của anh, nói đầy đủ là thơ phản đối chiến tranh phi nghĩa,
đă trở nên phóng khoáng hơn, mạnh mẽ hơn, thật sự thoát khỏi sự câu thúc
về niêm luật thanh vần. Ở thể thơ tự do, câu thơ tăi ra, giăn ra, dễ hiểu
như lời nói thường ngày. Đó là loại thơ không phải để thầm th́ giữa hai
người yêu nhau hoặc để vừa đọc vừa ngẫm nghĩ một ḿnh với tâm trạng cô đơn,
trầm lắng. Đó là thơ để đọc trầm hùng, hoặc đọc như gào thét, như tiếng
kèn xung trận trước công chúng. Tuy vậy, anh vẫn làm thơ theo các thể
truyền thống, nhưng để dễ hiểu, Tần Hoài Dạ Vũ lại thường dùng phương thức
biểu đạt nửa ẩn dụ (mặc dù cũng có ẩn dụ toàn phần) để thể
hiện những ư tưởng về sự vật có ư nghĩa biểu trưng, về trạng thái trừu
tượng:
“… cho con sông
nhân đạo / chảy trên cánh đồng tim / chẳng gặp ghềnh ích kỉ / thuyền yêu
không sợ ch́m…” (6).
Hành tŕnh tư tưởng và
thơ ca của Tần Hoài Dạ Vũ, không nghi ngờ ǵ nữa, đă khởi phát từ tinh
thần dân tộc, khát vọng tự do, phản kháng cường quyền tay sai với nhận
thức mà về sau anh tự nhận là quá nhiều “sương mù” (không phải là sương mù
thiên nhiên, sương mù thơ mộng!), để dần dần tiến đến phủ nhận những cái
gọi là “cách mạng quốc gia”, “chỉnh lí quốc gia” ở chính trường Miền Nam.
Vào tháng 12. 1967, trong một bài thơ Thư gửi em gái ở Hội An,
người em gái được mẹ sinh ra “năm tháng trước ngày đ́nh chiến […] / khi
người ta lập tờ khai sinh hai nước Việt
Nam”
(1954), Tần Hoài Dạ Vũ
viết:
“… Mười ba năm trên
xứ sở tật nguyền / Tiếng súng nổ ru em ngày mới lớn / Cách mạng xuống
đường đả đảo hoan hô / Thay đổi ǵ đâu em / Đời vẫn ngục tù / Vẫn cha mẹ
ngày đêm khốn đốn / Gạo tiếp tế tháng đôi lần chen lấn / Cơm vẫn thường
bữa mắm bữa rau […] / Anh thức dậy đêm nay […] / Từ trái tim mở ngơ một
ngày / Là đau thương thổi về ngàn năm lồng lộng / Tổ quốc chúng ta đây /
Màu cờ thấm máu / Lịch sử chúng ta đây / Tầm tă trận mưa bom / Mưa tan nát
trên mặt người hấp hối / Trời Bắc Nam sùi sụt không thôi / Ôi Sài G̣n Hà
Nội / Những bàn tay chưa nối lại nhịp cầu / Những mắt nh́n c̣n chôn giấu
hầm chông / Trong tiếng nói có nghi ngờ phục kích / Làm sao để yêu thương
/ Mà không sợ người giật ḿn chia cắt …” (7).
Từ nền tảng cơ bản của
mọi nền tảng là tinh thần dân tộc, Tần Hoài Dạ Vũ đă trăn trở, thao thức,
t́m kiếm và do đó, tất nhiên phải nếm trải cả những sai lầm v́ xă hội đầy
đặc “mù sương” tuyên truyền. Tâm trạng, nhận thức bấy giờ của anh, sau bao
nhiêu năm tháng, ta nh́n lại, thấy đáng quư biết bao. Dẫu có sai lầm ít
nhiều về nhận thức, về tư tưởng, nhưng giữa một Miền Nam sa đoạ, suy đồi
bằng đủ các thứ khuyến khích lăng quên, buông xuôi, phó mặc thời cuộc và
vận nước, tấm ḷng và nghị lực của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ vẫn sáng lên
trong bối cảnh quá nhiều “sương mù” đó. T́m đường! Nhận đường! Mở đường!
Đó là tiếng gọi của thời đại và của trái tim anh. Con đường ấy, anh và thế
hệ tự t́m kiếm, tự khai mở lấy, chứ không phải khi mới chào đời hoặc khi
đang c̣n là cậu bé học sinh trung học, con đường ấy đă được người lớn chỉ
vẽ, áp đặt. Do đó, đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ, không ai không quư mến, trân
trọng h́nh ảnh một thanh niên cùng với thế hệ ḿnh thao thức, trăn trở để
tự khai mở một hướng đi tới, mà khởi điểm cũng như mục đích vẫn là tinh
thần dân tộc, nền độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc.
Con đường thơ ca và
nhận thức của anh, một chàng trai bấy giờ đang ở lứa tuổi hai mươi, vẫn
c̣n ở phía trước. Anh viết Gửi tới một tương lai, trong âm hưởng
sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu thân (1968), mà báo chí Miền
Nam gọi là “biến cố Tết Mậu Thân”, chính xác là vào mùa đông năm ấy. Đó
cũng là thời điểm có lẽ nhà thơ đă tốt nghiệp đại học sư phạm và đă ra
trường, đi dạy học, lại trở về thăm Huế.
“Những ngày trở về
tôi không gặp mặt bạn bè / Thiên nhiên khóc bên ḷng vô vọng / Thành phố
im ĺm dưới trời mưa tai ương / C̣i hụ giới nghiêm lúc tám giờ […] //
Nhưng đời sống của chúng tôi đóng cửa vội vàng / Giấc ngủ trẻ con giàu ác
mộng // Ai đang đi dưới một bức tường / Bỗng thấy tim đau đời mẹ nổ //
Những ngày trở về tôi sống bơ vơ / Đi măi về ḷng ḿnh lá chết / Thèm gặp
một người quen mừng rỡ hàn huyên / Chỉ thấy những người lính viễn chinh
nói cười la hét / Những đêm khuya gác tối không đèn / Un buồng phổi khói
tàn nhựa thuốc / Muốn viết những bài thơ tố cáo bạo quyền / Muốn viết
những trang thư t́nh dù em không đọc / Nhưng ḷng khô băi gió đ́u hiu /
Chỉ c̣n nỗi chết im ĺm trong hai huyệt mắt / Sáng ngày mai rửa mặt, lang
thang / Đi gặp những hồn ma kêu vang mất nước // Tôi muốn cúi xuống hôn
những con đường / Ghi từng nỗi nhọc nhằn dân tộc…” (8).
(Huế, 12. 1968)
Đây là bài thơ có thể
nói, đă phản ánh rất đúng tâm trạng của một phân số thế hệ trong bối cảnh
Huế – Miền Nam hồi đó. Lính viễn chinh Mỹ, Đại Hàn “nói cười la hét”
bắt đầu có mặt trong thơ anh! Và Tần Hoài Dạ Vũ không thể không viết rơ,
viết công khai hai chữ “mất nước”!
Với một người anh cũng
là học sinh, năm học 1969 – 1970, tôi đang ở Huế. Từ Quảng Trị, tôi vào
thành phố cổ kính ấy để học lớp 8 (đệ ngũ) tại Trường Trung học Hàm Nghi,
ngôi trường dưới triều nhà Nguyễn được gọi là Quốc tử giám. Tôi có thể cảm
nhận được không khí đấu tranh của sinh viên học sinh Huế vào thời điểm ấy,
và cũng có đôi lần tham dự băi khoá, mít tinh, biểu t́nh. Đọc lại chùm thơ
Tần Hoài Dạ Vũ viết về Huế trong thời đoạn này, tôi như đang cảm nhận lại
một phần không khí Huế năm xưa.
Ở thời điểm 1969, Tần
Hoài Dạ Vũ đă thật sự đến gần với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Trong những người bạn của anh, có người đă “lên xanh”, như Trần Minh Thảo,
Trần Văn Hoà. Họ đă lên chiến khu, cầm súng chống đế quốc Mỹ xâm lược. Với
anh, trận tuyến hầu như đă khá rơ ràng.
“… tôi nhớ đến các
anh / những người đă ra đi không lời từ biệt / có bao giờ chúng ta lại nói
với nhau / lời chân thật? Có bao giờ chúng ta im lặng xót đau / thấy một
mùa tai ương thổi tới / đất nước nghẹn ngào mưa / niềm vui chúng ta gót
chân người giẫm nát […] // những con ruồi xanh bu trên hạnh phúc tôi thiu
/ những con ruồi xanh trên phần số chúng ta / nỗi ám ảnh kinh hoàng dân
tộc […]// không lẽ chúng ta sống suốt một đời khốn nạn / và chết trần
truồng nô lệ ngày mai? […] // tôi nghĩ đến người xưa mài gươm dưới trăng
[…] // trên vỉa phố hồn ḿnh c̣n nghe đau nhức / những gót giày ngoại quốc
ngửa nghiêng …” (10).
Ư thức phản chiến
không c̣n là phản đối chiến tranh phi nghĩa chung chung. Thơ Tần Hoài Dạ
Vũ lúc này cũng trở nên nhuần nhị hơn. Có lẽ đây là lúc ngọn bút thơ của
anh đă được tháng ngày và nhiệt t́nh rèn luyện, mài giũa, để có thể viết
nên những ḍng thơ sắc nét và tài hoa, bay bướm một cách giản dị.
Tần Hoài Dạ Vũ nh́n
vào hiện thực chiến tranh, để thấy rơ những điều giả dối trong sách giáo
khoa, thấy rơ bản chất của ḷng thù hận ở ngoài xă hội, và muốn được giăi
bày cùng người em hay nàng thơ nào đó về những nỗi niềm mà hiện thực chiến
tranh đă khắc sâu móng vuốt của nó vào ḷng anh, về những lớp học sinh đầu
tay ở ngôi trường đầu tiên anh làm thầy giáo:
“… trong những
trang sách anh dạy học tṛ / đă thấy hiện h́nh những điều xảo trá / hạnh
phúc bỏ đi xa / khi chúng ta mỗi ngày chen vai cùng thù hận // Niềm thù
hận không phải tự tâm hồn / không phải tới từ đồng bào hay xứ sở / nhưng
thù hận vẫn tới khắp mọi miền / như loài quạ đen của thời đại / về từ miền
đất nào xa xôi / bay suốt tim người rao tin dữ […] // Em làm sao đọc hết
một đời / trang sử ḷng anh đầy máu đỏ // Sáng hôm nay đứng giữa sân
trường / chung quanh tôi những đời đơm lộc mới / biết ngày mai chúng ta
c̣n gặp lại nhau? / mừng một niềm vui vừa tới / Đêm hôm qua người chết
lặng câm …” (10).
(Tam Kỳ, 08. 5. 1970)
Phải chăng không phải
“nội chiến” mà chính là “ngoại chiến”?
Như hầu hết những bài
thơ phản chiến hồi đó, thơ tự do của Tần Hoài Dạ Vũ h́nh như được tiếp nối
bằng mạch thơ của Hữu Loan, Yên Thao, Quang Dũng, Trần Dần, Phùng Quán
thời kháng chiến chống Pháp và kể cả thời Nhân văn – giai phẩm ở Miền Bắc.
Bài thơ thường là khá dài, tâm trạng trữ t́nh – suy tưởng được trải bày từ
một khung cảnh (đi bách bộ trên đường phố mưa chẳng hạn), trong đó nhà thơ
với nhiều góc độ hướng về nhiều không gian, thời gian, và nhà thơ độc
thoại đơn thuần hay độc thoại theo cách đối thoại với nhiều đối tượng thơ
khác nhau, khi với mẹ, khi với em, khi với bạn… Thơ như một loại tuỳ bút
chất chứa, trào dâng, miên man nhiều cảm xúc trữ t́nh công dân (chữ của
Trần Dần là “thơ chính trị”). Có lẽ bài Màu tím hoa sim của
Hữu Loan, bài Nhà tôi của Yên Thao, bài Lời mẹ dặn của Phùng
Quán, bài Nhất định thắng của Trần Dần… là khá tiêu biểu cho
loại thơ theo cấu trúc này. Thử làm một sự so sánh giữa thơ Trần Quang
Long, Trần Vàng Sao, Thái Ngọc San, Trần Đ́nh Sơn Cước, Lê Văn Ngăn, Lê
Gành, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật (11) và thơ Tần Hoài Dạ Vũ… với
những bài thơ của các nhà thơ lớp trước trên kia sẽ thấy rơ một sự ảnh
hưởng khá rơ về kết cấu, nhạc điệu, ngôn từ…
Có ǵ trái khoáy không
khi nhận định như thế? Nếu cần thiết phải có một chút lí giải, phải chăng
là thế này: Những nhà thơ phản chiến ở Miền Nam vốn là những người trẻ
tuổi có ḷng yêu nước mănh liệt, tâm hồn họ chan chứa tinh thần dân tộc,
trái tim họ sục sôi ư chí căm thù quân xâm lược viễn chinh, họ dũng cảm
kêu đ̣i thống nhất, họ tha thiết yêu công lí với tất cả tấm ḷng. Theo
ngày tháng, họ đă nhận thức rơ thực chất của chế độ Mỹ nguỵ ở Miền Nam,
nên dần dần họ đến với Mặt trận Giải phóng. Nhưng họ cũng là những người
cháy bỏng khát vọng tự do. Do đó, họ không thích thú ǵ với loại thơ ca
“chính thống” ở Miền Bắc. Họ sẵn sàng làm người cộng sản, và thực sự có
người là đoàn viên, đảng viên cộng sản thuộc Đảng Nhân dân cách mạng Miền
Nam Việt Nam (Đảng Lao động Việt Nam tại Miền Nam), nhưng thực chất họ vẫn
là những người cộng sản tự do, dân chủ và biết phản kháng lại bất công
ngay dưới chế độ cộng sản, chứ không phải là loại “cộng sản đàn cừu” dưới
gậy chăn dắt, gậy chỉ huy văn nghệ. Tôi nghĩ rằng đó là trạng thái tinh
thần đích thực của những người sinh viên tuổi hai mươi, những nhà thơ trẻ
phản chiến ở Miền Nam. Sự gặp gỡ giữa Hữu Loan, Yên Thao, Phùng Quán, Trần
Dần… với Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, Thái Ngọc San, Trần Đ́nh Sơn Cước,
Lê Văn Ngăn, Lê Gành, Trần Phá Nhạc, Nguyễn Đông Nhật, Tần Hoài Dạ Vũ… là
không có ǵ nghịch lí.
Tôi cũng không dám quả
quyết về tư tưởng và hành trạng chính trị của những nhà thơ phản chiến ấy,
nhưng điều tôi đoan chắc trên kia, là trên cơ sở văn bản nghệ thuật được
đăng tải trên các tờ báo hợp pháp hoặc không chịu sự kiểm duyệt thuở bấy
giờ.
Thơ Tần Hoài Dạ Vũ
không những thể hiện tính kế tục giữa thơ chống Pháp, Nhân văn – giai phẩm
với thơ anh trên mặt báo, mà chính bản thân con người nhà thơ trong đời
thực cũng thế. Tôi vốn là một trong những học sinh của thầy giáo Nguyễn
Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ), nên đă được nghe ngay tại lớp học những bài thơ
không bao giờ có thể có trong sách giáo khoa dưới nhà trường chế độ cũ, do
chính nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đọc (**). Đó là những bài Màu tím hoa sim,
Nhà tôi, Lời mẹ dặn, Nhất định thắng… cùng với những bài thơ phản
chiến của chính thầy giáo – nhà thơ, trong đó có bài Ḍng chữ máu rưng
rưng.
“Buổi chúng ta về
qua một ḍng sông / Sương mù quê hương lên rất chậm / Anh nh́n tôi cười
nói như xưa / Nhưng trong nắm tay đă có tấm ḷng uất nghẹn […] / Dù trái
tim chúng ta có buồn / Vẫn thấy nắng hồng lên chật phổi / Những khổ đau
như nấm mọc thân non / Khô héo hết khi niềm tin lớn măi […] // Ḷng chúng
ta ai cứa vết dao / Nh́n những đoàn xe viễn chinh cuốn bụi mù cuối phố […]
// Ai cướp cơm và ai đong máu / Ai bán thịt xương ta dựng những phố lầu /
Đời chúng ta ai rào quanh bóng tối / Anh em ơi, ḷng nhớ dặn ḷng / Hạnh
phúc vẫn đang c̣n trui lửa đỏ / Anh đă tin và tôi đă tin / Trước bạo lực
không bao giờ cúi mặt […] // Tôi cúi đầu đi / Mưa rơi / Rơi măi / Đất nước
Miền Nam trơ trụi xác xơ […] / Thiếu những nụ cười / Thiếu cả tự do làm
hơi thở […] // Anh ơi, đêm c̣n quá dài không thể ngủ / Tôi ngồi trong tối
ngóng phương xa / Chờ đợi Hoà b́nh lên trước ngơ / Ḷng sục sôi mà không
viết nổi câu thơ / (Hăm bảy tuổi lẽ đâu đành chịu trói?) […] // Này anh
bạn viễn chinh xa lạ / Xóm làng tôi anh đốt phá tan tành / Tương lai chúng
tôi anh nung sém điêu linh […] // Anh ơi, hăy thắp đuốc lên môi / Nắm tay
lại bao nhiêu xích xiềng phá hết […] // Ta đi mừng hội mới / Tổ quốc ơi,
khắc hết cả cuộc đời / Ḍng chữ máu rưng rưng / Tự do hay là chết / Khắc
giữa quả tim Việt Nam măi măi kiêu hùng” (12).
(30. 6. 1971)
Sau khi ra Huế tiếp
tục giảng dạy, Tần Hoài Dạ Vũ vẫn t́m cách gửi báo in không giấy phép (thậm
chí c̣n ghi giấy phép là Hiến Pháp, để chơi khăm chế độ Mỹ ngụy) vào Tam
Kỳ (tỉnh Quảng Tín, tức là tỉnh Quảng Nam bây giờ). Chúng tôi, những học
sinh lớp 10, 11 chuyền tay nhau đọc. Bài Nối bước, viết tặng Nguyễn
Đông Nhật, em trai của nhà thơ, đă được in trên tạp chí Đối Diện
(***) hồi ấy. Đó là sự nối bước theo thế hệ cha ông chống Pháp:
“… chúng lộn, chúng
nhào / chúng gào, chúng thét / chúng băm vằm ứa máu bầu trời xanh / nhà
cháy / thây tan / dưới những cơn mưa sắt / nhưng chúng càng giết người
càng sáng ngời tim sự thật / trái tim Việt Nam anh dũng chống xâm lăng //
Em tôi nay trưởng thành đi chiến đấu / (đứa em sinh chưa đầy tháng buổi
cha đi) / nối bước ông cha quyết chí giữ làng / nương bóng tre xanh vươn
ḿnh chống Mỹ […] / khuya nay loa gọi thức ánh trăng rằm / sao trời nở
trên ngọn cờ cứu nước / ta ôm súng lên đường nhớ lời mẹ ru thuở trước…”
(13).
(06. 1972)
Và sau khi Hiệp định
Paris 1973 kí kết, nhà thơ chào mừng đứa con đầu ḷng ra đời bằng một bài
thơ, không phải là thơ ru con, mà thơ phản chiến.
“Bây giờ không c̣n
những con chó sói bên ngoài / không c̣n những tiếng nổ xâm lăng / không
c̣n hận thù làm mắt nh́n bốc lửa / nhưng bây giờ vẫn c̣n những con chiên
ghẻ trong làng / những tên đồ tể vẫn hằng trục lợi / những tên đầy tớ
ngoan ngoăn để người sai / chúng âm mưu níu mùa đông lại / chúng rào quanh
những khu vườn cây trái c̣n tươi / nhưng mùa xuân ở bên kia sông đang bước
tới […] / Anh có nghe không nắng mai vừa tới / mang t́nh yêu hoà hợp xây
đời // C̣n rất nhiều nghi kị giữa chúng ta / c̣n rất nhiều hiểu lầm lo sợ
[…] // Ta đi khắp xóm làng hát lời ca ngợi / mùa thương yêu hoà giải của
dân ta… ” (14).
Từ đó, thơ Tần Hoài Dạ
Vũ luôn được viết với sự lặp đi lặp lại những từ “hoà hợp, hoà giải,
liên hiệp, Hội trùng tu, Hội Nước” và có cả “Hội Loài người” (15).
Trong Gió hoà b́nh đă thổi, có đoạn rất cảm động và nhuần nhị,
có đoạn v́ cần chuyển tải khẩu hiệu, nên vẫn c̣n “khó đọc”:
“Khi lũ giặc đă
cuốn cờ xâm lược / gió thanh b́nh thổi bát ngát ḷng ta / em nhớ về chung
tay mừng Hội Nước / khắp Bắc Trung Nam hoà hợp một nhà! […]/Mẹ già ơi, gió
hoà b́nh đă thổi / chúng con về dựng lại xóm làng xưa / thù hận cũ, bên
bếp hồng, hoà giải / ḷng tạnh rồi sau những tháng ngày mưa…” (15).
Đọc thơ Tần Hoài Dạ Vũ
giai đoạn này, hiểu anh nh́n rơ thù hận chất chứa cả trăm năm là thù hận
có thật, cần phải hoà giải để hoà hợp. Tôi vẫn c̣n nhớ trong cuốn Việt
Nam sử
lược (16),
một bộ sử được xuất bản dưới chế độ thực dân, vài ba thế hệ đă đọc, có câu:
“Dần dần người trong nước phân ra bên lương, bên giáo, ghen ghét nhau hơn
người cừu địch”.
Thù hận giữa người Việt với người Việt c̣n hơn thù hận cừu địch ngoại xâm
là cả một sự thật khủng khiếp, và đă thuộc về sử kí! Nhưng lịch sử vẫn c̣n
đang tiếp diễn từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai, cho nên, mặc dù
nói với niềm hi vọng lạc quan nhất, cũng phải nói thù hận ấy hiện vẫn c̣n
tồn tại âm hưởng của nó (chỉ âm hưởng thôi), trong xă hội Việt Nam hậu
chiến (1975 – 2004) (17)!
Từ những bài thơ đầu
tay, như Cho tương lai (18) (1964), Tần Hoài Dạ Vũ đă viết đến hai
chữ “đức tin”. Phải chăng đây chỉ là một cách tu từ, hay thực sự là
đức tin tôn giáo, cụ thể là Thiên Chúa giáo? Ở bài thơ Thư gửi
em gái ở Hội An, anh lại mỉa mai: “Em ơi, phải chi Chúa cho chúng
ta được quyền chọn lựa / Thuốc độc hay Hoà B́nh” (7). Nhưng có lẽ một
trong những đoạn thơ của Tần Hoài Dạ Vũ dễ khiến người đọc khó quên nhất
vẫn chính là mươi ḍng viết về người vợ hiền của anh (gia đ́nh cha mẹ vợ
thuộc bộ phận đạo ḍng Thiên Chúa giáo): “Ôi vợ tôi hiền lành như bông
lúa / Mắt trong ngon như một giọt nước dừa / Vẫn cam chịu đi về mấy mùa
mưa nắng / Vẫn là con chiên ngoan đạo mỗi sáng đến nhà thờ / Cầu nguyện
cho người chồng ngoại đạo…” (12). Tất nhiên Tần Hoài Dạ Vũ biết rơ như
anh đă viết: “nhưng bây giờ vẫn c̣n những con chiên ghẻ trong làng…”
(14)!
Có những cuộc t́nh
duyên vốn khởi đầu bằng những rung động trong sáng, vô tư, rồi theo ngày
tháng, những trái tim bị sa lầy không lối thoát một cách oan uổng. Đó là
những cuộc t́nh duyên bi kịch rất có ư nghĩa về mặt văn chương, nhưng dưới
lăng kính chính trị, hoá ra “có vấn đề”!
Tôi nghĩ, đây là một
trong những điều đă làm nên khối mâu thuẫn trong tâm hồn thơ Tần Hoài Dạ
Vũ! Nhưng ở thi sĩ, mâu thuẫn có tính bi kịch hoá ra lại là vấn đề rất thu
hút đối với các nhà nghiên cứu, phê b́nh văn học vốn thường quan tâm đến
các vấn nạn của hiện thực xă hội trong văn học. Và một nền văn học đích
thực không bao giờ đơn điệu, bởi có sự hiện hữu của những mâu thuẫn bi
kịch rất hiện thực ấy!
Chung quy, với mảng
thơ phản chiến này, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ vẫn là một nhà thơ hiện thực
giàu chất lăng mạn và lắm ảo mộng. Tôi từng biết, ai đó đă không ưa anh,
cho anh là nhà thơ “tiểu tư sản”, ai đó nặng nề hơn, gọi anh là nhà thơ
“ngụy tín”, “cải lương chủ nghĩa”, thậm chí thúc đẩy việc thi hành kỉ luật
đối với anh (khai trừ anh cùng một loạt người ra khỏi Đảng), và ai đó chỉ
biết ngậm ngùi, trong những cuộc chuyện tṛ nào đó, khi chợt nhắc về anh:
thi sĩ “thất sủng”!
Chính Tần Hoài Dạ Vũ
đă ghi nhận vào thơ anh những dư luận từ trước đó, 1965, trong bài
Những ảo tưởng mùa xuân của loài rêu, chứ không đợi đến sau này (từ
1975), v́ những lí do khác.
“… Người ta bảo anh
là nhà thơ – anh tự hỏi không biết có phải – chỉ là một giống nhai lại mớ
ngôn từ giẻ rách lừa dối thiên hạ bằng những ảo tưởng mặc áo hoa những khổ
đau vớt ra từ ḷ nhuộm những hận thù súng đạn chết chóc viển vông // […]
// Biết nói thế nào với em khi trán anh vẫn kẽm gai rào kín mắt anh nh́n
tua tủa bàn chông và người đời th́ vẫn liên tiếp ngộ nhận đằng sau mỗi lời
nói nghi ngờ vẫn hằng phục kích? // Anh rơi từ đỉnh đau thương xuống vực
sâu tủi hổ giấu mặt nằm im không dám nh́n ngày lên vàng vọt sợ đồng loại
nhận ra ḿnh chỉ là một tên mồm mép nói hoài về cuộc chiến tranh trong mỗi
trái tim trên mỗi phần da thịt quê hương // […] // Anh vẫn đánh lừa anh
mỗi ngày nghĩ rằng người ta không quên được vết thương càng lúc càng lở
lói máu càng lúc càng đặc quánh căm hờn và những ruộng lúa chết ngạt trong
rừng mưa bom sâu vào thân thể…” (19).
Mặc dù ít nhiều thừa
nhận những thiên lệch trong cách nh́n, trong giọng thơ trước hiện thực
Miền Nam và thường tự trách ḿnh bằng hai từ “ảo tưởng”, “ảo vọng” (bởi
thơ là tiếng nói cảm tính, không phải là kí sự lịch sử lạnh lùng), nhưng
cũng chính nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ đă xác định cho ḿnh sứ mệnh của thi sĩ,
trước những dư luận công kích, trước những bạo lực luôn luôn cố quyết d́m
chết những tiếng thơ phản kháng:
“Anh đi ven sườn
đồi / cứ muốn vượt lên đỉnh / sự thật ở trên cao ở phía trước anh / giữa
một thời đại / mà mọi sức mạnh / đều muốn nhận ch́m anh // Ngày chói sáng
và mây bay đi / ngày chói sáng / những tiếng kêu xé ḷng […] / anh không
ngừng sống / với những ảo vọng // […] Thời đại kêu thét điên dại / trong
trái tim anh lửa cháy / trái tim thành một lưỡi hái / gặt những mùa ảo
vọng / trái tim không ngừng / chảy / máu…” (20).
Tôi thấy Nhà thơ
Tần Hoài Dạ Vũ có chất đỏ rất Pablo Néruda, một thi sĩ Chi Lê
(Nobel 1971), mặc dù anh nhắc đến Núi Sọ trong Tân ước (Kinh Thánh),
nơi Jésus Christ chịu tử h́nh trên thập giá dưới chế độ thực dân của đế
quốc phong kiến La Mă, v́ Jésus Christ đă dám rao truyền “đức tin mới”.
Luôn trăn trở về sứ
mệnh của thơ ca và trách nhiệm của nhà thơ, Tần Hoài Dạ Vũ c̣n viết bài
Dự báo (1986):
“Những nhà thơ của
thập kỉ dăi dầu / lại viết về những ngày b́nh yên hằng tưởng […] // Những
nhà thơ sống một thời xa hoa / nói điều cao xa trước một em bé đói / câu
hát gỉ của một dàn đồng ca tiền chế / trôi thờ ơ trên những mặt người đang
đứng trước cánh cửa tai ương // […] sẽ đến trong cuộc sống chúng ta / một
ngày phố phường đỏ tươi ngọn cờ phẫn nộ // Khi ấy t́nh yêu chúng ta được
đánh thức / bằng tiếng hát của những nhà thơ cô đơn” (21).
Phải chăng anh đă đi
đến với chân lí nghệ thuật và chân lí trong lao động sáng tạo nghệ thuật?
Không bao giờ có thơ ca được sáng tác tập thể và nhà thơ đích thực thiếu
cá tính sáng tạo cả. Và câu hỏi cũng là câu trả lời của Jean Paul Sartre
(1905 – 1980), anh thường nói với học tṛ ngày ấy, “trước một đứa bé
đói, hăy đặt cuốn La naussé (Buồn nôn (22)) và ổ bánh ḿ, nó sẽ
chọn thứ ǵ?”. Phải chăng cháu bé đói khát ấy không thể chọn La
naussé (1938), cho dẫu La naussé là cuốn sách mà Jean Paul
Sartre dốc hết tinh hoa của đời ḿnh vào đó, để tŕnh ra giữa đời một chủ
nghĩa hiện sinh vô thần. Cháu bé cần phải ăn cho lớn và đi học cho thành
tài đă, rồi bấy giờ nó mới t́m đọc La naussé, xem tại sao phải
buồn nôn trước hư vô, trước cuộc đời phi lí, phải dấn
thân, phải phản kháng, và phải có tự do, phải có
trách nhiệm. Ở đây, tôi không có ư nhắc lại để phê phán hay khen ngợi
chủ nghĩa hiện sinh vô thần, mặc dù đó là “con đường thứ ba” ở
Phương Tây giữa thế kỉ XX, theo cách của Phương Tây. Vấn đề là đôi câu thơ
của Tố Hữu trong bài Có thể nào yên: “Tôi muốn viết những ḍng
thơ tươi xanh / Vẫn nóng viết những ḍng thơ lửa cháy”. Điều này đă có
nhiều cuốn sách b́nh luận, tôi không phải bàn thêm. Cuối cùng, cái chính
là suy tư của chính Tần Hoài Dạ Vũ về “t́nh yêu chúng ta” và
“nhà thơ cô đơn”, chứ không phải nhà thơ trong dàn đồng ca thi sĩ
“tiền chế” trước cây gậy chỉ huy văn nghệ. T́nh yêu nào vậy? T́nh yêu
đương? T́nh yêu cuộc sống? T́nh yêu Đất nước? T́nh yêu chủ nghĩa nhân đạo
cụ thể và thiết thực? Vân vân dấu hỏi sẽ được đặt ra cùng ba dấu chấm lửng
hay một dấu chấm quả quyết? Nhưng rơ ràng là đă có sự kiện Cởi trói
(1987) trước “một ngày phố phường đỏ tươi ngọn cờ phẫn nộ”.
3
Tần Hoài Dạ Vũ c̣n là
một thi sĩ của t́nh yêu đương và các t́nh cảm khác bên ngoài những suy tư
về thời cuộc, những ǵ có thể gọi là thực sự dấn thân vào cuộc chiến tranh.
Anh đă xuất bản hai tập thơ viết về những nỗi niềm đôi lứa và về những tâm
trạng riêng tư: Thơ t́nh Tần Hoài Dạ Vũ và Ngọn lửa quạnh hiu.
Thật ra, trong tập T́nh yêu và vầng trăng lửa, mặc dù chủ yếu
là thơ phản chiến, nhưng cũng có một chùm thơ yêu đương thuần chất được
anh đặt vào giữa tập.
Số lượng thơ yêu
đương được anh viết trước Ngày Thống nhất (1975) trong hơn hai tập thơ
hoá ra không nhiều, so với mảng thơ cũng về đề tài này được anh viết về
sau. Nếu chỉ căn cứ vào tỉ lệ như thế, ta cứ ngỡ đến lúc đă bước vào tuổi
ba mươi (1976) Tần Hoài Dạ Vũ mới thật sự lao vào t́nh yêu đương!
Thơ yêu đương, Tần
Hoài Dạ Vũ viết lúc anh c̣n ở lứa tuổi cháy bỏng nhất về loại t́nh yêu này,
rất dễ nhận thấy, căn cứ vào sắc thái đặc trưng về ngôn ngữ thơ Miền Nam
trong hơn hai thập niên chia cắt đất nước (1954 – 1975). Thơ tâm trạng
riêng của anh trong giai đoạn này cũng thế. Tôi gọi đó là hương vị ngôn
ngữ thơ Miền Nam (23).
Sau mấy mươi năm, đến
bây giờ tôi vẫn thấy những đoạn thơ trong bài Hẹn về với Huế của
Tần Hoài Dạ Vũ tuy vẫn chưa hề cũ, nhưng đó là nét đẹp cổ kính rất Huế:
“… Anh sẽ về một
sáng mùa thu / sông Hương c̣n trắng những sương mù / áo em trắng nhịp cầu
thương nhớ / bóng ngă ḷng anh câu hát ru // Anh sẽ giong thuyền trên nước
xanh / chở trăng Gia Hội vào Nội thành / soi nghiêng mái tóc thề tôn nữ /
thiếp giữa một vùng hương mỏng manh…” (24).
(1964)
Hoặc ở bài Khi em
16 tuổi, nhà thơ bước vào tuổi 18 viết những điều vừa thơ mộng vừa rất
thực ở tuổi dậy th́ trong trắng:
“Nắng e thẹn d́u em
từng bước nhỏ / hồn có buồn hơi thở cũng c̣n thơm / rừng tóc rối xôn xao
loài dị thảo / mùa xuân sang chợt rủ xuống giận hờn // […]Con sóng nhỏ vỗ
hai bờ cảm giác / vườn ngây thơ bướm trắng đă thôi vào / rồi một buổi buồn
bỗng dưng thức giấc / đường em về chiều hoa rụng lao xao…” (25).
(1964)
Nhưng riêng ở mảng thơ
về tâm trạng riêng trước Ngày Thống nhất, không phải chỉ một ḿnh tôi, mà
rất nhiều người đă đọc và thuộc nằm ḷng một bài thơ được đăng trên bán
nguyệt san Văn hồi ấy. Chiều mưa uống ruợu là bài thơ đẹp hoàn
chỉnh của Tần Hoài Dạ Vũ về mặt ngôn ngữ thơ và tâm trạng thể hiện trong
đó. Bài thơ của một người xa Huế và nhớ thương về Huế trong sự trống vắng
quanh ḿnh. Phải sống với Huế rất lâu và rất sâu với Huế mới có thể viết
được những câu thơ với bao h́nh ảnh mang hồn vía Huế như vậy.
“buồn xuống ngang
vai chiều tới chậm / ḷng tôi mưa bụi nữa đây em / không chắc đêm nay mà
ngủ được / rượu tàn không ấm nhớ không tên // tâm sự cứ như là áo rách /
từng chiều chếnh choáng bước loanh quanh / hồn thôi bỏ mặc cho sương xuống
/ thương nhớ không vàng giọt nắng hanh // dừng chân dưới cột đèn châm
thuốc / không gió mà tay lạnh rất đầy / mùa thu về nữa trên cây lá / mai
mốt sẽ buồn như heo may //không biết t́nh xa chiều có lạnh / người về qua
một bến sông xanh / áo bay hay là rơi vào Nội? / thương nhớ ḷng theo mấy
cửa thành // sao tôi cứ là mây viễn xứ / thèm về soi giữa mắt nhung xưa /
mà không là một vầng trăng tỏ / nở giữa hồn em cả mấy mùa? // mưa rụng
thêm hồn tôi nữa đây / chiều tàn. rượu hết. sầu chưa say / mai về tay níu
vai cầu cũ / cởi áo xưa buồn cho gió bay” (26).
(1969)
Sau Ngày Thống nhất
(1975), nhất là trong thời Đổi mới (1985) và Cởi trói
(1887), thơ yêu đương và thơ tâm trạng riêng của Tần Hoài Dạ Vũ không phải
vô cớ lại chiếm lĩnh cả tâm hồn anh. Tuy cả xă hội và riêng văn học nghệ
thuật được đổi mới và cởi trói, nhưng Tần Hoài Dạ Vũ đă
không c̣n dấn thân với tất cả tinh thần trách nhiệm như trước đây. Anh
thừa biết những câu trong sách giáo khoa, ban biên soạn đă viết nhằm phê
phán thơ ca lăng mạn tiền chiến (1930 – 1945), đại để là nhà thơ t́m
đến t́nh yêu đương như một sự thoát li hiện thực xă hội dưới chế độ thực
dân – nửa phong kiến. Nhưng khó viết về “con người mới, cuộc sống
mới”, nay được tự do thể hiện cái tôi trữ t́nh trong thơ yêu đương
cũng là một lối thoát cho sự bế tắc hiện tại. Và t́nh yêu đương bùng cháy
trong bao tập thơ, trang báo. Không thể ra khỏi quỹ đạo của thời đoạn, Tần
Hoài Dạ Vũ sống lại với thời thanh xuân đă qua. Với yêu đương, anh yêu
bằng cả trái tim nhưng đó là trái tim của một người đứng tuổi, đă từng
trải, và đă xa lắm rồi những ngây thơ, sôi nổi, thiết tha mà thơ mộng ở
tuổi sắp là sinh viên đại học. Trái tim anh gần đây vẫn sôi nổi, thiết tha
như thuở nào, nhưng cảm xúc lại có chiều sâu của những trầm tư. Anh suy
nghiệm về t́nh yêu đương. Và không nghi ngờ ǵ nữa, anh muốn t́m trong yêu
đương một sự thăng hoa, giải thoát: t́nh yêu đương như một thứ tôn giáo
mang tính chất trần tục. Anh làm thơ triết lí về t́nh yêu đương, trong đó
có cả dục tính với sự ngợi ca thân xác (tất nhiên ở tuổi đă quá trưởng
thành!), sự truy t́m bản thể, lại gồm cả sự tính toán giàu sang, danh vọng
của người đàn bà ở tuổi chín muồi và đă trải qua nhiều nỗi đời, sự âu lo ở
tuổi sắp sửa xế chiều của người đàn ông cô đơn, không thừa thăi tiện nghi
vật chất. Tôi có thể nói về thơ t́nh Tần Hoài Dạ Vũ giai đoạn sau này như
vậy. Và tôi không thể không nhận ra, chính anh, Tần Hoài Dạ Vũ, sau cuộc
trải nghiệm yêu đương với “người bạn đời ngoài hôn ước” (27) – theo
cách nói của anh –, nhà thơ đă viết: “Kỉ niệm bây giờ là đôi mắt địa
ngục soi mói khi cuối cùng tôi đă hiểu ra rằng chẳng phải t́nh yêu là tất
cả” (28).
“Cuối cùng th́
những dối trá cũng bày ra / nhưng anh không ngờ nó lại trần trụi đắng cay
đến vậy / Bệnh tật là mặt trái của đắm say // Cuối cùng th́ những ảo tưởng
đă tan đi / nhưng anh vẫn không bao giờ c̣n nhắm lại được con mắt trong
sáng / Chiếc mặt nạ của thói đời phóng đăng // Cuối cùng th́ cuộc t́nh
muộn phiền cũng đă kết thúc / nhưng anh vẫn không thể nào bước qua trái
tim ngập giữa tro tàn / Li nước đă không c̣n một chút cặn” (29).
Quả thật, Tần Hoài Dạ
Vũ đă viết được những bài thơ rất đẹp, đẹp một cách cay đắng, và có chiều
sâu tư tưởng về t́nh yêu đương. Ngoài những thể thơ, kể cả thể tự do,
thường thấy trong các tập thơ của anh, Tần Hoài Dạ Vũ c̣n làm sống lại và
làm mới mẻ hẳn loại thơ văn xuôi mà chúng ta nếu để ư, sẽ thấy rất
gần với thể phú trong văn học Việt Nam cổ điển. Ngọc tĩnh liên
phú của Mạc Đĩnh Chi, đặc biệt là Tài tử đa cùng phú của Cao Bá
Quát, Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ, đó là vài ba dẫn
chứng dễ t́m thấy và hầu như ai cũng biết. Thể phú thực chất là thơ
văn xuôi, có thể nói như vậy, mặc dù ở thể phú c̣n bị ràng buộc bởi
phép biền ngẫu, thanh vận. Nói cách khác, thơ văn xuôi chính là thể phú
tự do. Rabindranath Tagore thường dùng thể thơ văn xuôi này như ở tập
Tâm t́nh hiến dâng (30) chẳng hạn, và các nhà thơ trước đây cũng có
nhiều người sử dụng như Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Mai Trung
Tĩnh, Nh. Tay Ngàn… Chùm thơ văn xuôi của Tần Hoài Dạ Vũ có tên riêng của
từng bài như Thư gửi một người lỗi lầm, Mùa xuân xa tít, Đoạn kết của
một nỗi buồn, Kinh cầu riêng cho một người, Bằng chứng, Bài ca của ḷng
trắc ẩn muộn màng, Phút giây vĩnh cửu, Lối về, và có thể kể cả bài
Niềm tin. Đó là những sáng tạo mới rất đáng kể của anh. Riêng bài
Niềm tin, thử không ngắt ḍng, ta đọc được một đoạn thơ văn xuôi tuyệt
vời:
“Nếu tuổi trẻ đă
qua đi và chỉ c̣n những hoài niệm luôn luôn đè nặng tâm hồn tôi. luôn luôn
cuốn tôi đi trong ḍng xoáy của đời. luôn luôn vọng lại trong tôi những
lời từ biệt, tiếng c̣i tàu hay tiếng gió của buổi hoàng hôn mưa bụi. tôi
vẫn không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn…” (31).
Ở bài Niềm tin
ấy, lần thứ nhất in ở tập Thơ t́nh Tần Hoài Dạ Vũ, lần thứ hai anh
in cuối tập Ngọn lửa quạnh hiu để thay một lời tự bạt. Điệp cú
“tôi vẫn không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn” ở cuối mỗi đoạn
thơ là một sự khẳng định niềm yêu cuộc sống của anh như anh từng quả quyết
đặt đầu đề cho một bài thơ khác, “V́ niềm vui. Với niềm vui” (32).
Một điều nữa có thể
thấy ở mảng thơ yêu đương suốt đời thơ của Tần Hoài Dạ Vũ, mà tôi mạn phép
gọi là mảng mưa đêm (dạ vũ), bên cạnh mảng thơ phản chiến bến
Tần Hoài (bạc Tần Hoài): đó là hàng trăm bài thơ trau chuốt nhất của
anh về ngôn từ, nhạc điệu và h́nh ảnh. Thơ phản chiến, anh viết khá giản
dị, dễ hiểu, có nhiều bài đẹp và sâu trong sự giản dị, dễ hiểu ấy, nhằm
phục vụ quần chúng. Thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ được viết hầu hết với
thi pháp khác hẳn, để người yêu thầm th́ đọc cho người yêu, để ta đọc đi
đọc lại trong suy ngẫm, mỗi lúc đọc mỗi phát hiện ra những dụng công rất
tinh tế của nhà thơ.
Tuy nhiên, cũng không
v́ thế để rồi nói bừa rằng, Tần Hoài Dạ Vũ bỏ tất cả tâm huyết và gan ruột
vào thơ yêu đương và chỉ thơ yêu đương mà thôi. Không, hoàn toàn không
phải vậy. Tôi nghĩ, viết thơ phản chiến một cách dung dị lắm khi lại phải
khổ công lao động nghệ thuật gấp nhiều lần so với việc làm một bài thơ yêu
đương có h́nh thức trau chuốt tinh tế.
Một điều khác nữa, Tần
Hoài Dạ Vũ rất ít khi làm thơ lục bát. Tuy vậy, với thể thơ này, để thể
hiện tâm trạng riêng, anh vẫn có những câu rất hay, cái hay của sự giản dị,
trong trẻo và gần gũi:
Mười năm không trở
lại nhà
Bóng trưa nghiêng
đổ tiếng gà trong mơ (33).
4
Mặc dù có sự giao thoa
giữa mảng thơ phản chiến (bạc Tần Hoài) và thơ yêu đương (dạ vũ),
nhưng ở Tần Hoài Dạ Vũ qua 03 tập thơ, có một sự rạch ṛi đến độ không
cần lưu ư cũng có thể thấy ngay.
Trong mảng thơ phản
chiến, qua những bài thơ được sắp xếp theo thứ tự thời gian ở tập T́nh
yêu và vầng trăng lửa, dưới mỗi bài lại có cả địa điểm, ngày tháng năm
hoặc chỉ là năm sáng tác, người đọc có thể h́nh dung rơ những chặng đường
nhận thức cùng những dấu ấn tư tưởng và thủ pháp nghệ thuật thường dùng
trong mỗi giai đoạn của nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ. Thơ trữ t́nh (vốn thuộc
loại h́nh hư cấu) không phải là hồi kí (thuộc loại h́nh ghi chép người
thật, việc thật), tác giả cũng không xác định đó là kí sự hay nhật kí bằng
thơ, tuy nhiên, người đọc vẫn h́nh dung ra một chân dung thơ (tôi
không dám khẳng định là chân dung khắc hoạ con người đời thật) của Tần
Hoài Dạ Vũ. Đó là con người thơ bên trong, con người sâu thẳm, của
chính nhà thơ. Mảng thơ yêu đương của Tần Hoài Dạ Vũ góp phần rất lớn để
chân dung thơ, con người sâu thẳm của nhà thơ hiển hiện trước mắt
ta, qua những tần số rung cảm, tần số xuất hiện những h́nh ảnh, từ ngữ, ư
tưởng, thủ pháp nghệ thuật mà tác giả tâm đắc nhất, trăn trở nhất, thao
thức nhất.
Tôi có thể cam đoan
với những ai chưa đọc trọn vẹn 03 tập thơ của Tần Hoài Dạ Vũ một điều:
Trong một bối cảnh văn học đầy ngập những ấn phẩm suy đồi, có tác hại xô
đẩy hoặc khuyến khích tuổi trẻ t́m kiếm sự lăng quên thế cuộc trong những
mối t́nh yêu đương đủ loại, trong những thứ triết học xa lạ, viển vông, ẩn
chứa nhiều độc tố chưa được chỉ ra (bên cạnh những yếu tố tích cực), và
trong không khí xă hội đầy đặc những nỗi niềm mặc cảm nhược tiểu, mặc cảm
thân phận, những thứ mặc cảm chỉ khiến tuổi trẻ cúi gục đầu buồn thảm, Tần
Hoài Dạ Vũ đă phần nào nh́n ra sự thật lịch sử và thực trạng chế độ xă hội,
đặc biệt là ở Miền Nam, để rồi xác định cho ḿnh, bạn bè ḿnh và cả những
người nhỏû tuổi hơn ḿnh một trách nhiệm ở trái tim – ngọn bút, trước vận
nước. Đó là điều rất đáng quư trọng và kính mến. Tất nhiên anh cũng có
những sai lầm, thiếu sót, phiến diện, những ảo vọng dung hợp đối cực, và
không phải không có những thiên lệch. Nói rơ ra, chẳng lẽ Tần Hoài Dạ Vũ
không có một chút nào xúc động trước hiện thực đấu tranh của phong trào
Phật giáo, gồm cả lực lượng dân tộc thuần tuư đông đảo, chống chế độ Mỹ
ngụy thời bấy giờ? Và anh c̣n thiên lệch về nhiều phương diện khác nữa.
Nhưng với một tiếng thơ đấu tranh trực diện, những thiên lệch (đúng hơn là
sử dụng thủ pháp nghệ thuật cường điệu) của t́nh cảm cháy bỏng nẩy sinh từ
nhiệt huyết là một điều không thể khác được. Nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ cũng
không phải không nhận ra điều đó. Tôi nghĩ, hẳn có lúc anh đă tự hỏi, trái
tim nhà thơ có thể công bằng, khách quan hơn đối với lịch sử, và cái nh́n
của nhà thơ cũng có thể tỉnh táo, toàn diện, thấu đáo hơn về hiện thực xă
hội – lịch sử chăng?
Tôi vẫn giữ ḷng quư
trọng, kính mến ấy về nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ ở những thao thức, trăn trở
trong thời gian sau Ngày Thống nhất (1975), mà anh đă viết thành thơ trong
03 tập thơ đă xuất bản, mặc dù h́nh như anh đă bị quá nhiều áp lực, các
luồng sức ép vừa thực chiêu vừa hư chiêu, nên “nhiều lúc như để tâm hồn
nghiêng về thế giới của hư vô” (34); và cho dẫu như vậy, anh “vẫn
không tin rằng cuộc đời này chỉ có nỗi buồn” (31).
Tôi hiểu, chưa có thời
đoạn nào sức ép đối với người làm thơ, viết văn (tất nhiên liên quan đến
sử học) lại ghê gớm và từ nhiều phía như hiện nay.
Nhưng, ngoài t́nh yêu
cuộc sống, chúng ta c̣n biết đ̣i hỏi ǵ nữa ở một nhà thơ vốn quá bơ vơ và
rất lẻ loi giữa trần gian này?
Khởi viết từ 10 giờ đúng,
ngày 15. 10. HB4 (02. 9 G. thân HB4);
Viết xong lúc 16 giờ 03
phút, ngày 17. 10. HB4 (04. 9 G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(*) Trong cuộc sống, có
nhiều góc độ ứng xử, và mỗi góc độ đều phải đặt trong một điều kiện giao
tiếp thích hợp. Đây là lần đầu tiên, tôi xin phép được gọi thầy giáo trực
tiếp giảng dạy tôi vào học ḱ I năm lớp 10 bằng một đại từ trong quan hệ
chỉ chênh lệch nhau khoảng 10 tuổi và trong t́nh thân văn nghệ: anh.
(1) Thơ Đường, tập
1, nhiều người dịch, Nxb. Văn Học, 1987, tr. 263: “Bạc Tần Hoài”,
nguyên tác của Đỗ Mục: Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa / Dạ bạc Tần
Hoài cận tửu gia / Thương nữ bất tri vong quốc hận / Cách giang do xướng
“Hậu đ́nh hoa”! Khương Hữu Dụng dịch: Nước
lồng khói toả, cát trăng pha / Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia / Con hát
biết chi hờn mất nước / Cách sông c̣n hát “Hậu đ́nh hoa”!
(2) Tần Hoài Dạ Vũ, Thơ
t́nh Tần Hoài Dạ Vũ (TTTHDV.), tập thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1992;
Ngọn lửa quạnh hiu (NLQH.), tập thơ, Nxb. Trẻ TP. HCM., 1996; T́nh
yêu và vầng trăng lửa (TY. & VTL.), tập thơ, Nxb. Trẻ TP. HCM., 1997.
(3) TY. & VTL., sđd., tr.
13 – 14.
(4) TY. & VTL., bài Giấc
ngủ mùa xuân, sđd., tr. 16 & bài Bài thơ của một thành phố đóng cửa,
sđd., tr. 45.
(5) TY. & VTL., sđd., tr.
42 – 44.
(6) TY. & VTL., bài Cho
tương lai, sđd., tr. 23.
(7) TY. & VTL., sđd., tr.
58 – 59.
(8) TY. & VTL., sđd., tr.
66 – 69.
(9) TY. & VTL., bài
Những sáng mùa đông, sđd., tr. 70 – 74.
(10) TY. & VTL., bài Hi
vọng bên cơi chết, sđd., tr. 79 – 80.
(11) Nhiều tác giả,
Tiếng hát những người đi tới, Nxb. Trẻ, 1993. Ở đây, tôi chỉ liên hệ
đến các nhà thơ và chỉ những nhà thơ thường làm thơ theo thể tự do, có ảnh
hưởng mô-tip (motif) này; tôi cũng không đề cập đến các nhà văn hoặc những
nhà sáng tác vốn nổi trội hơn về văn xuôi mặc dù cũng có làm thơ, như Trần
Duy Phiên, Trần Hữu Lục… Xin thêm một vài ḍng vào chú thích này: Tôi biết
nhà thơ Trần Vàng Sao, tác giả Bài thơ một người yêu nước ḿnh cùng nhiều
tập thơ, sau khi đă thoát li “lên xanh”, anh vẫn cứ là nhà thơ phản kháng
trước những bất công, giả dối, nên bị đưa ra Miền Bắc. Ở Miền Bắc, anh lại
bị “giam” tại một trại hẻo lánh, bản thảo thơ anh bị tịch thu, tiêu huỷ.
Sau Ngày Thống nhất, được về Huế, nhà thơ Trần Vàng Sao vẫn là “nhà thơ
dân đen” hay “nhà thơ cùng đinh”. Giai đoạn mới Đổi mới, anh
lại xuất hiện trên tạp chí Sông Hương, gây chấn động dư luận bằng bài
Người đàn ông bốn mươi ba tuổi kể chuyện ḿnh và nhiều bài khác. Hiện nay,
anh vẫn c̣n sống và vẫn tiếp tục sáng tác tại thành phố Huế.
(**) Xin xem thêm: Trần
Xuân An, Giữa ṿng tay Tam Kỳ và bè bạn, bút kí, Kỉ yếu 40 năm
(1955 – 1995) thành lập Trường Trung học Trần Cao Vân, Tam Kỳ, Quảng Nam –
Đà Nẵng, 1995, tr. 58 – 70. Trong bút kí này, nhân vật thầy giáo B. là
giáo sư trung học đệ nhị cấp Nguyễn Văn Bổn (Tần Hoài Dạ Vũ).
(12) TY. & VTL., sđd., tr.
100 – 107.
(***) Tạp chí Đối Diện
(hay Đồng Dao, Đứng Dậy), ấn hành từ 1969 đến 1978, do một nhóm
linh mục cấp tiến, hoạt động độc lập bên ngoài Giáo hội Thiên Chúa giáo,
chủ trương: Chân Tín, Nguyễn Nghị, Nguyễn Ngọc Lan… Tôi không dám đoan
chắc về dư luận này: Đây là những linh mục Thiên Chúa giáo muốn thực thi
một sách lược hoà hợp, hoà giải dân tộc, chống chế độ Mỹ ngụy và liên hiệp
với Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam cùng chính quyền Miền Bắc nước
ta. 03 linh mục kể trên hiện nay c̣n sống và thường trú tại TP. HCM..
(13) TY. & VTL., sđd., tr.
116 – 119.
(14) TY. & VTL., bài
Chào mừng Nắng Mai, sđd., tr. 124 – 129.
(15) TY. & VTL., bài
Gió hoà b́nh đă thổi & bài cuối tập là Mùa xuân của chúng ta,
sđd., tr. 132 – 134 & … 144.
(16) Trần Trọng Kim,
Việt
Nam sử lược
(1921), Nxb. Tân Việt, bản in 1964, tr. 343. Tôi không khẳng định Trần
Trọng Kim viết hoàn toàn đúng. Riêng về khía cạnh này, thật ra, ông đă
“lách” khi viết về mâu thuẫn lương – giáo. Xin trích một đoạn tôi đă viết
ở một cuốn sách: “Mâu thuẫn giữa Pháp xâm lược – Việt chống ngoại xâm bị
tôn giáo “đầu độc” nên chuyển thành mâu thuẫn Việt bên giáo – Việt bên
lương! Người Việt bên giáo thù hằn người Việt bên lương hơn thù giặc Pháp,
thậm chí tôn vinh giặc Pháp là sứ giả của Thiên Chúa, và ngược lại, người
Việt bên lương chủ trương vừa b́nh Tây vừa sát tả!”. Xin xem thêm tư liệu
gốc: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, kỉ đệ
tứ – kỉ đệ lục (1847 – 1888), bản dịch Viện Sử học, Nxb. Khoa học xă hội,
1972 – 1977.
(17) Để rơ hơn, xin xem
thêm: Trần Xuân An, Mùa hè bên sông, tiểu thuyết, bản đă sửa chữa,
bổ sung lần thứ ba, in vi tính ngày 19. 12. 2003 (trọn vẹn gồm 745 trang [kể
cả phần chú thích, phụ lục] và phần ngoài sách gồm 15 trang [một bài thơ
viết về Quang Trung cùng các chú thích sử học], cỡ sách 13 cm x 19 cm).
(18) TY. & VTL., sđd., tr.
24.
(19) TTTHDV., sđd., tr. 24
– 25.
(20) NLQH., bài Nhà thơ,
sđd., tr. 19 – 20.
(21) NLQH., sđd., tr. 25 –
26.
(22) Jean Paul Sartre (1905
– 1980), Buồn nôn, Phùng Thăng dịch, Nxb. An Tiêm, 1969.
(23) Không chỉ trong thơ
yêu đương, thơ tâm trạng riêng, mà bất ḱ thể loại văn học, báo chí nào
cũng thế. Rơ ràng ở Miền
Nam h́nh thành riêng một hệ ngôn ngữ tiếng Việt, mặc dù đất
nước chỉ bị chia cắt trong 21 năm. Điều đó có thể nhận ra ngay, khi đọc
những ấn phẩm sách báo xuất bản ở Miền Nam trước 1975, và đối chiếu với hệ
ngôn ngữ tiếng Việt ở Miền Bắc trong cùng giai đoạn.
(24) TTTHDV., sđd., tr. 17.
(25) TY. & VTL., sđd., tr.
83 – 84.
(26) TTTHDV., sđd., tr. 27
– 28.
(27) NLQH., bài Phút
giây vĩnh cửu, tr. 88.
(28) NLQH., bài Đoạn kết
tạm thời của một nỗi buồn, sđd., tr. 63.
(29) NLQH., bài Hồi cuối,
sđd., tr. 74.
(30) Rabindranath Tagore,
Tâm t́nh hiến dâng (đúng ra là The Gardener – Người làm vườn,
1961), Đỗ Khánh Hoan dịch, Nxb. An Tiêm, 1969.
(31) NLQH., sđd., tr. 92.
(32) NLQH., sđd., tr. 33 –
38.
(33) NLQH., bài Trăng ư,
sđd., tr. 42.
(34) Lời “ghi chú” của nhà
thơ Tần Hoài Dạ Vũ.
Phụ chú
(ngày 9-7-2005): Xin chú thích thêm: 4 câu thơ về lá cờ Mặt trận Giải phóng và Cộng ḥa
Miền Nam Việt Nam. Đó là lá cờ chính thức và chủ yếu ở Miền
Nam, trước ngày Hiệp thương Thống nhất
(1976). Đoạn thơ ấy trích trong trường ca “Nước non ngàn dặm” của
Tố Hữu: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ của đất, màu xanh của trời, Ngôi
sao chân lư của đời, Việt
Nam – vàng của ḷng người hôm nay”.
Phải chăng đó là lá cờ ngược (sách lược tạm thời)? hay do vô thức chi phối
khi Tố Hữu cấu tứ? Có nên truy kích nhau trong phê b́nh văn học? Tôi (Trần
Xuân An), trong những năm về sau, đă mạn phép chữa nghịch lư lại cho hợp
lư hơn: “Lá cờ nửa đỏ nửa xanh, Màu đỏ hừng sáng, màu xanh biển ngời,
Ngôi sao chân lư của đời, Việt
Nam – vàng của tim người hôm nay”.
Tất nhiên, bấy giờ cũng như bây giờ, tôi không dám sửa thơ của người khác
(nếu không phải bạn bè, thân quen và có trao đổi chân t́nh) như vậy, nhất
là thơ của Tố Hữu (đă vào văn học sử khi ông c̣n sống). Ư tưởng này với
những h́nh ảnh ấy, tôi đă thể hiện trong một bài thơ của ḿnh vào năm
1976.
TXA.
Đă gửi:
Ô. Tần Hoài Dạ Vũ (18. 10.
HB4).