ĐỌC THƠ VƠ NGUYÊN
1
Trong bài tựa cho tập
truyện Bản hoà âm thôn dă (1), giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đă viết:
“Những thiên truyện của Vơ Nguyên thật dễ mến. Qua những thiên truyện ấy,
có lẽ tác giả muốn phát hiện ở những con người Việt Nam b́nh dị nỗi khát
khao t́nh thương yêu, hạnh phúc, điều thiện và lẽ công bằng, trong cuộc
sống c̣n nhiều thương tích chiến tranh, và con người th́ c̣n nhiều khổ đau
vất vả” (2). Ở một đoạn khác, GS. tiếp tục nhận định về tập truyện ấy:
“Căn cứ vào những nét đặc sắc ở một số truyện của Vơ Nguyên, tôi cho
rằng Vơ là cây bút văn xuôi có thiên hướng trữ t́nh. Anh muốn phát hiện
chất thơ ẩn náu trong cái b́nh dị đời thường, ở những số phận ít ai biết
đến, giữa cái hối hả, quyết liệt của cuộc sống v́ miếng cơm manh áo hằng
ngày” (2).
“Thiên hướng trữ
t́nh”, “chất thơ”
của một nhà văn, vốn
đă khẳng định được ít nhiều tên tuổi ḿnh trên báo chí và một số giải
thưởng (*), là một nét của tâm hồn Vơ Nguyên. Nét đặc sắc ấy, khi viết một
cách tinh tế về anh như thế, GS. Nguyễn Đăng Mạnh không đề cập đến những
bài thơ được anh sáng tác song song và đăng báo. Có lẽ nguyên nhân là do
truyện ngắn Vơ Nguyên trội hơn rất nhiều so với thơ Vơ Nguyên, mặc dù thơ
anh không phải không có những câu, những bài có thể thuộc vào loại đọc rồi
là khó quên.
Nếu văn xuôi Vơ Nguyên
c̣n có thêm một nét đáng kể nữa, “truyện không có ǵ đáng kể mà sao rất
có duyên”, nhờ nghệ thuật viết truyện và nhờ Vơ Nguyên biết yêu quư
những ǵ rất b́nh dị giữa cuộc đời b́nh thường này, cộng với “ư nghĩa
nhân bản sâu sắc” trong một vài truyện (3). Tôi nghĩ Vơ Nguyên có tiếp
thu André Gide (1869 – 1951) nhưng lại trái ngược chiều về lập trường với
André Gide (sau 1936).
Đó là một nhà văn Pháp
nổi tiếng với tiểu thuyết có tên như tập truyện đầu tay của Vơ Nguyên (La
symphonie pastorale, 1919 (**)) và tiểu thuyết khác, cũng đă được dịch ra
tiếng Việt là Dưỡng chất trần gian (Les nourritures terrestres,
1897 (**)).
Điều đó, quả thật,
cũng thể hiện ở thơ của anh. Khác với nhiều nhà thơ viết văn hay nhiều nhà
văn làm thơ khác, người văn và người thơ Vơ Nguyên đúng là một tạng chất.
Tuy nhiên, ở hai loại h́nh văn chương này, mức độ thành công (văn) hoặc
chưa thành công nhiều (thơ) ở Vơ Nguyên, c̣n được quyết định bởi kĩ thuật
đối với mỗi loại.
Nếu hầu hết 19 truyện
ngắn Vơ Nguyên đă tinh tuyển trong hai tập truyện, cho thấy một “tay nghề”
truyện ngắn già dặn, ở một số truyện phải nói là tác giả đă đạt đến mức
lăo luyện, th́ ở thơ, trong tập Lời cho người hát chia tay (1), kĩ
thuật hầu như không thành vấn
đề quan tâm đối với Vơ Nguyên – h́nh như anh chủ ư làm thơ một cách hồn
nhiên, có bài như thể đồng dao bâng quơ, nhưng rất tiếc không phải là bâng
quơ của điêu luyện. Tuy vậy, nhờ nội lực của chất nhà văn trong anh, nên
có bài rất khó quên.
Nói như vậy, có phải tôi
có cảm giác như GS. Nguyễn Đăng Mạnh không? Uống qua hết những chén rượu
truyện ngắn đầu nồi (rượu nước nhất) tuyệt ngon của Vơ Nguyên, lại uống
thêm vài chén rượu nước nh́, nước ba là thơ ca Vơ Nguyên, đâm ra thơ ca ấy
dở mất, cho dù thực chất rượu nh́, rượu ba được chắt lọc từ tâm hồn của
anh vốn cũng khá thơm ngon, nồng đậm, dịu ngọt – chất ngọt đích thực của
rượu gạo.
2
Nhưng cũng phải đọc lên
ngay, để thấy thơ thế này có lẽ nào không phải là thơ có thể đọng măi
trong trí nhớ và trái tim người đọc, trước hết là v́ vẻ đẹp của ngôn từ (chứ
không phải nhờ độ sâu của ư tưởng)? Đây là bài Hoàng hoa (4) của Vơ
Nguyên:
Xưa ai ngậm ngải t́m trầm
Để người ngậm đắng bao năm rối bời
Hồ đêm lặng đến chơi vơi
Đáy sâu ngưng đọng sóng đời lung linh
Trầm xưa mất thời gian xanh
Hoàng hoa ngả bóng sang cành thiên thu.
“Ngậm ngải t́m trầm”
không phải là giữ im trên đầu lưỡi một thứ ngải thiêng nào đó
với niềm tin vào dược liệu cộng với niềm mê tín vào thần linh để có đủ sức
chịu đựng gian khổ ở vùng sơn lam chướng khí, có đủ khả năng chống chọi
với thú dữ suốt bao tháng ngày vào rừng sâu t́m kiếm một loại hương liệu
quư giá (thứ hương liệu h́nh thành được bởi loài cây dó, sau một quá tŕnh
ít ra là suốt mấy mươi năm xanh lá, hấp thu được tinh chất từ gió ngàn,
mây núi, suối nguồn, đất rừng để tinh luyện, cô đặc lại). Trong bài
Hoàng hoa, đó là sự tịnh khẩu, trầm tư trong lao tâm khổ tứ để t́m
kiếm sự kết tinh ngay chính trong tâm hồn, trí tuệ của người đàn ông nào
đó.
Hoa cúc vàng phải chăng
c̣n có tên hoàng hoa? Đó không phải là hoa mai vàng hay hoa lan
vàng hoặc một loại hoa có sắc vàng nào khác. Tôi bỗng ngậm ngùi khi ánh
mắt một lần nữa chạm đến hai câu kết. Lá xanh đă úa, đă rụng như “thời
gian xanh”, th́ Vơ Nguyên cần chi miêu tả nữa, ta cũng thấy đóa cúc
vàng kia tiều tụy đến mức nào, khi “hoàng hoa ngả bóng sang cành thiên
thu” miên viễn!
Phải chăng đó là vẻ đẹp
cổ điển của Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều với
những ẩn dụ mới do Vơ Nguyên sáng tạo?
Suốt cả tập thơ, cho dù
không viết nhiều lần hai chữ thời gian, nhưng Vơ Nguyên cũng cho ta
cảm được ư niệm ấy theo cách của anh: “Thời gian khoác áo sa mờ / Tưởng
là thật hoá ra mơ một thời” (5); “… Cũng là quá khứ dẫu vừa quay lưng /
Thời gian là thế em có thấy không” (6).
Ư niệm thời gian
không có ǵ rơ rệt hơn ở người con gái bị thiên hạ gọi là lỡ th́ (lỡ thời),
thời xuân sắc đă trôi qua, hạnh phúc lứa đôi không hề gơ cửa, hoặc do
duyên cớ nào đó, đă để lỡ mất cơ duyên, và rồi không c̣n ai gơ cửa nữa khi
đă quá muộn mằn. Đây không phải là vấn đề mới, mà thuộc về vấn đề muôn
thuở, vả lại trong kho tàng ca dao hầu như không thiếu những bài về bi
kịch này của phụ nữ. Nhưng trong cuộc chiến tranh khốc liệt, lâu dài vừa
qua, con số thống kê bi kịch này là thuộc loại bí mật quốc pḥng; và một
trong những nỗi đau hậu chiến c̣n là nỗi niềm này. Không phải ngẫu nhiên
Bến không chồng, tên một tác phẩm của Dương Hướng, được nhiều người
sử dụng để nói về thời gian với nỗi niềm Vơ Nguyên đă viết thành thơ:
Lời người lỡ th́ (7).
“Quê em / Nắng tháng mười cây cỏ xác xơ / Và rưng rức ngực
hồng bốc cháy / Tung cát bụi mịt mờ bờ băi / Gió lồng lên như đàn ngựa phá
chuồng // Tháng năm về hờ hững trôi êm / Em đứng đợi ngàn trùng sóng gió /
Tim khép mở bóng h́nh mờ tỏ / Bao lâu rồi ngọn gió vỗ triều lên // Gió bốn
mùa thổi thốc qua đời em / Cứ lồng lộng bốn mùa gió thổi / Sợ từng đêm trở
ḿnh con cú gọi / Sợ ngoài kia trăng vỡ rụng tơi bời…”.
Hai chữ “ngực hồng”
của Vơ Nguyên chính là “dấu hiệu” để người đọc nắm bắt được mạch chính của
bài thơ, nếu không kể đầu đề. Tất cả đều được anh viết bằng ẩn dụ, ẩn dụ
gió lồng lộng và gió thông thốc suốt bốn mùa vẫn là h́nh ảnh quán xuyến
suốt bài. Nhưng làm sao ta không cảm nhận được nỗi đau như thể bùng cháy,
dậy sóng, hoặc nỗi đau âm ỉ trong tâm trạng hoảng hốt, lo sợ trước tuổi
già cô quạnh sắp ập đến. Có ǵ tàn nhẫn lắm không khi miêu tả tâm lí người
con gái lỡ th́ như thế? Người phụ nữ cao quư sao lại quá nhiều thú tính,
sao hoang dă đến mức ấy? Hay tận chiều sâu của sự miêu tả ấy là ư nghĩa
nhân bản, rất con người? Khát t́nh và khát vọng hạnh phúc lứa đôi trong
tuyệt vọng, quả thật, tôi không ngờ lại bi thiết, quằn quại đến thế!
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm trong văn học cổ điển nước ta, ai đó đă
viết, ấy là “tiếng thét kêu đ̣i hạnh phúc đôi lứa”, nhưng h́nh như ai đó
cũng đă tránh né gọi đích danh của một trong những khía cạnh hạnh phúc là
nỗi niềm tâm sinh lí “khát t́nh”. Dẫu sao, tôi vẫn thấy Vơ Nguyên đă dùng
hơi đậm thủ pháp cường điệu, phóng đại.
Mặc dù với biện pháp nghệ
thuật không phải tả chân mà là ẩn dụ, có thể bài Lời người lỡ th́
này cũng phải xếp vào kho “bí mật quốc pḥng”, nếu Vơ Nguyên không
viết dưới ánh sáng của thiện năng và mĩ học, để bài thơ ấy thành một chỉnh
thể nghệ thuật. May thay, cây bút của nhà giáo Vơ Nguyên không xô con
người (đối tượng trữ t́nh – khách thể tự biểu hiện, và người đọc) xuống
vực thẳm; rơ ràng anh đă quyết níu giữ lại con người bên bờ vực thẳm ấy.
Về ư niệm ngày tháng trôi
qua và những ǵ mất đi, những ǵ c̣n lại, Vơ Nguyên có thêm một bài thơ
thể bốn chữ, Vó thời gian (8). “Bóng câu qua cửa sổ”, thời gian
được biểu trưng bằng vó ngựa phi nhanh, không phải là một h́nh ảnh mới.
Cách kết cấu chủ yếu bằng những hai ḍng thơ sóng đôi hoặc hai cặp câu
sóng đôi, chứa đựng hai h́nh ảnh đối lập về chiều kích (con kiến – ngọn
đồi; gang tấc – hư vô; ngọn bút – cơ đồ…) hoặc tương đồng về ư nghĩa (xác
ve sầu – con ngựa già…), Vơ Nguyên để cho h́nh ảnh tự biểu đạt được cảm
nghĩ của anh về kiếp người ngắn ngủi, bé mọn giữa vô tận thời gian, mênh
mông không gian, về cái chết như một lẽ tất yếu của quy luật sinh – tử,
thành – hoại… Triết lí ấy không phải mới, nhưng cũng không bao giờ cũ. Có
một điều là Vơ Nguyên vẽ lại khung cảnh khiến anh nẩy sinh mối suy tư và
cảm xúc lại bằng những nét mờ nhoà lung linh không rơ rệt.
“Một ngày nắng gió / Em đă đi rồi / Ai đem nỗi nhớ / Treo chi
giữa đời // Dă tràng xe cát / Hoang phí một thời / Một con kiến gió / Chết
bên chân đồi // Phù trần gang tấc / Bay vào hư vô / Nào ai nghiêng bút /
Làm nên cơ đồ //Trên cành phượng vĩ / Xác con ve sầu / Bên đường thiên lí
/ Một con ngựa già // T́m đâu vĩnh cửu / Cát bụi hợp tan / Khổ đau kim cổ
/ Vơi đầy nhân gian // Lửng lơ hạnh phúc / Trêu chi cơi đời / Tôi mang nỗi
nhớ / Về cho một người”.
“Em đă đi rồi”!
“Em” là ai vậy?
Và “đi” về đâu?
“Nỗi nhớ” kia, sao lại “treo chi giữa đời”?
“Ai” là người “treo” nỗi nhớ ấy? Tại sao “tôi mang
nỗi nhớ, về cho một người”? Tôi nghĩ, Vơ Nguyên đă tiễn đưa một người
em trai hoặc em gái, cũng có thể là một học tṛ cũ về nơi miên viễn, và
chính người thơ đă tự nguyện nhận lấy “nỗi nhớ” để mang về cho
người yêu của người vừa được chôn cất. Có thể đó là nỗi nhớ trăn trối của
người vừa được đặt xuống đáy huyệt, nhưng có lẽ đúng hơn là phải thấy thêm,
nỗi nhớ trăn trối kia, người đă qua đời đó cũng không dám gửi lại cho
người yêu c̣n sống mà hôm an táng ấy lại vắng mặt.
Bài thơ phúng điếu này
không phải là tiếng khóc thống thiết, tức tưởi hoặc da diết mà chỉ là cảm
nghĩ ngậm ngùi, trầm lắng, mênh mang. Có vậy thôi, sao bâng khuâng, xót xa
đến thế, và xao xuyến ḷng ta lạ lùng.
Có thể nói Một chuyến
đi về (9) của Vơ Nguyên cũng thuộc về cảm hứng thời gian, nhưng lại là
thời gian lịch sử. Đó là một “chuyến đi” của anh, từ Miền
Nam, “về” với nguồn cội, Đất Tổ – Đền Hùng: “Con về Đất Tổ chiều
đông / Hơi se sắt lạnh từ trong sa mù / Chợt rơi vào cơi thiên thu / Theo
con Chim Lạc bay từ hồng hoang…”.
Đây là một bài thơ rất
cảm động. Nhưng để thành công với đề tài đă thuộc loại truyền thống bốn
ngh́n năm sâu thẳm này, thật không dễ dàng. Trước Vơ Nguyên, đă có hàng
vạn bài thơ về nguồn như thế. Hẳn Vơ Nguyên cũng thừa biết khó khăn
ấy, tuy nhiên, vẫn không thể không bày tỏ một cảm xúc thiêng liêng đă
chiếm lĩnh cả tâm hồn anh, anh không muốn để quên đi, để trôi mất niềm
thiêng ấy, nên đă ghi lại thành thơ, như một chút ḷng thành.
Thời gian, với Vơ Nguyên,
đă được anh cảm nhận, suy tư trong các không – thời gian như thế.
3
Một trong những đề tài
cũng rất khó thành công khác, mặc dù cảm xúc về nó là không cách nào thiếu
vắng đối với người thơ và người thơ khó ḱm nén nhất. Đó là t́nh yêu đương.
Ngoài những bài mà hầu
hết là lời chia tay cuối một cuộc t́nh không thể đi trọn, Vơ Nguyên c̣n có
một suy nghĩ hơn là một cảm xúc về yêu đương: Vệt sáng (10). Anh
không bày tỏ những rung cảm bằng ngôn từ trữ t́nh, nhạc điệu biểu cảm, anh
viết về yêu đương bằng thi pháp mộc, để các h́nh ảnh tự biểu hiện điều anh
ngẫm nghĩ.
“Em như gương dưới nắng / Ánh vệt sáng lên tường / Thoáng
hiện rồi thoáng mất // Anh nửa đời t́m bắt / Vệt sáng tṛn xoay / Chiếc
gương lại lắc / Chỉ c̣n bức tường rêu phong”.
T́nh yêu đương chỉ là một
thứ ảo ảnh sao? Không, nhưng người yêu dấu đích thực chỉ là ảo ảnh. Đó là
cách nói về một nàng thơ không bao giờ có thật với người thơ, bởi v́ anh
ta măi măi khát vọng sự tuyệt đối, mà không bao giờ có nàng thơ nào
là tuyệt đối đối với một tâm thức nung nấu ư chí sáng tạo và măi măi c̣n
đam mê sáng tạo.
Đó là t́nh yêu thơ ca hay
t́nh yêu đôi lứa? Và đây, câu hỏi ấy lại được lặp lại thêm một lần nữa,
khi đọc bài thơ tứ tuyệt phóng khoáng về niêm luật có tên rất ngắn, chỉ
một chữ: Tan (11). Xin đừng chê tứ tuyệt của Vơ Nguyên quá cũ kĩ,
sáo ṃn, mặc dù mới đọc qua, quả đúng là cũ kĩ, sáo ṃn thật.
Siết ṿng tay và tan trong nhau
Tan vào vũ trụ với ngàn sau
Ngàn sau xa lắc, ai c̣n nhớ
Nếu chẳng bao giờ tan trong nhau.
Đây là tan hoà, sự trộn
lẫn, hỗn hợp giữa hai thực thể hoặc nhiều thực thể đến mức tuyệt đối,
như rượu pha với chanh hoặc như một thứ rượu đa vị (thập cẩm,
cocktail), không c̣n thực thể nào giữ được bản chất của nó. Rhum pha với
mươi giọt nước chanh vắt, rhum không c̣n nguyên chất rhum, chanh không c̣n
nguyên chất chanh, mà thành một thực thể mới không thể phân chia lại được,
ấy là rượu rhum-chanh. Mười hoặc mười lăm thứ rượu pha vào nhau,
không như chè thập cẩm (nho, lê, táo, chuối, mơ… mỗi thứ hầu như vẫn c̣n
nguyên là nó), rượu đa vị (thập cẩm) là kết quả của một sự đánh mất bản
chất từng thứ rượu để trở thành thứ rượu mới với hương vị mới. Do đó,
tan ở đây là sự hoà hợp tuyệt đối để tạo nên một thực thể
mới chứ không phải là tiêu tan, mất hẳn! Nhưng hoà hợp tuyệt
đối này cũng không phải là sự tập hợp. Trong tập hợp,
mỗi thành tố, mỗi đơn vị vẫn c̣n là chính nó nguyên vẹn, có thể với một
trật tự nhất định, như một tập hợp thơ (tuyển tập thơ của nhiều tác giả)
chẳng hạn.
Nhưng ở bài Tan
này, phải hiểu chữ tan bằng nghĩa cụ thể trong ngữ cảnh nghệ thuật cụ thể.
Tôi hiểu Vơ Nguyên muốn
nói đến t́nh dục vợ chồng trong quan niệm âm dương giao hợp để truyền đời,
góp phần nối tiếp sự trường tồn của một họ tộc, một dân tộc và rộng hơn,
đó là sự trường tồn nhân loại. Nhưng đọc lại lần nữa, thấy rằng, có lẽ Vơ
Nguyên chỉ giới hạn trong phạm vi họ tộc và chỉ trong phạm vi ấy. Với Vơ
Nguyên và cách nói cường điệu của anh, âm dương giao hợp (t́nh dục vợ
chồng) là một động tác hoà hợp tuyệt đối giữa hai thực thể nam nữ và không
những thế, c̣n là sự hoà hợp với cả Đất lẫn Trời, hiện tại với vĩnh cửu
ngàn sau. Anh không nói đến quá khứ ngh́n xưa, nhưng ta hiểu có sự hiện
diện của quá khứ ngh́n xưa ấy trong khoảnh khắc giao hợp âm dương (t́nh
dục vợ chồng, nơn – nường, linga – yoni) ấy. Đây cũng là động tác nguyên
sơ trong các dịp đón xuân mới, mùa quan họ, mùa đu cây, lễ tế thần nông (nhằm
góp phần kích thích sự thụ phấn, giao phối trong trồng trọt, chăn nuôi)
thuở xa xưa của người Việt và người Đông Nam Á. Thạp đồng Đào Thịnh, một
số mảng tranh khắc gỗ Đ́nh Bảng là những tác phẩm nghệ thuật biểu đạt quan
niệm triết lí về t́nh-dục-thiêng-liêng này (hoàn toàn xa lạ với
quan niệm, hành vi t́nh dục dung tục, bừa băi…).
Ở trường hợp này, cũng
như đối với mọi bài thơ, trang truyện khác, có thể tôi hiểu bài Tan
theo thẩm thức của riêng tôi. Trong thẩm thức riêng của tôi ấy, có cả mọi
vốn liếng văn hoá, tri thức, kinh nghiệm và tâm hồn lẫn thể chất của riêng
tôi.
Ồ, nhà giáo Vơ Nguyên nào
có ngại ǵ khi thể hiện lên trang giấy cảm xúc về sinh lí t́nh dục mang
chiều sâu văn hoá học. Nhưng, cẩn trọng chút nào, ta hăy đọc lại Tan
của Vơ Nguyên, để thấy Vơ Nguyên thanh khiết hơn Hồ Xuân Hương và khác
Hồ Xuân Hương một trời một vực, mặc dù sự thành công về nghệ thuật ngôn từ
thi ca của anh vẫn c̣n thua kém rất nhiều, nếu so sánh với sự thành công
trong khía cạnh ngôn từ của “Bà chúa thơ Nôm”, xét trên quan điểm
đồng đại (so sánh với các nhà thơ cùng thời của mỗi thời đại).
4
Vơ Nguyên là một nhà văn,
đó là điều hiển nhiên. Nhưng thơ ca của anh qua tập Lời cho người hát
chia tay chưa đủ để khẳng định Vơ Nguyên c̣n là một nhà thơ nữa. Vơ
Nguyên là một nhà văn đích thực, anh c̣n sống hết ḷng với thơ ca, có sáng
tác thơ ca, nhưng anh cũng chưa phải nhà thơ đúng nghĩa – có người bảo thế.
Theo sự nghiêm ngặt và
cái gọi là “tiêu chí” hiện tại là vậy.
Nhưng Bà Huyện Thanh Quan
đâu phải là một nhà thơ có nhiều bài thơ lưu truyền! Rơ ràng hơn, Nguyễn
Nhược Pháp với tập Ngày xưa (***) mỏng mảnh, chỉ vỏn vẹn 10 bài thơ
(tôi viết bằng chữ: mười, chỉ vỏn vẹn mười bài thơ), có ai
không gọi Nguyễn Nhược Pháp là nhà thơ? Trường hợp T. T. Kh., tuy c̣n là
một bí ẩn chưa có đáp số, cũng chỉ đăng báo bốn (04) bài thơ, đâu nhiều
nhặn ǵ, nhưng T. T. Kh. vẫn như ngôi sao sáng, cho dù chợt hiện rồi mất
hút. Có ai không gọi T. T. Kh. là nhà thơ? Dẫu vậy, có người vẫn nghĩ Vơ
Nguyên đích thực là nhà văn chứ chưa phải là nhà thơ. Những người ấy quá
nghiêm ngặt như sự nghiêm ngặt và cái gọi là “tiêu chí” hiện tại chăng?
Hỡi thằng tôi, có
phải thằng tôi cũng nghiêm ngặt? Và vớ vẩn nữa, khi đặt ra vấn đề
vớ vẩn như thế!
Ngẫm lại, thấy ít người
gọi Nguyên Hồng (tác giả Bỉ Vơ, Những ngày thơ ấu, Cửa biển…) là
nhà thơ, tuy nhà văn đă sừng sững trong văn học sử này có nhiều bài thơ
hay. Tôi nghĩ, Vơ Nguyên cũng thuộc vào trường hợp của nhà văn Nguyên Hồng,
với tầm cỡ khiêm tốn hơn.
Vơ Nguyên là một trong
vài ngôi sao sáng nhất ở tỉnh B́nh Thuận, nhưng chưa thật sáng trên khắp
cả nước, tuy có những truyện ngắn không thua kém ǵ các nhà văn hiện đại
thuộc loại xuất sắc nhất nước.
5
Vơ Nguyên thân mến,
Bỗng dưng ḿnh muốn viết một lá thư, gửi ra Phan Thiết để Vơ
Nguyên đọc và cho ư kiến.
Ḿnh nói ngay nhé! Chỗ bạn bè thân thiết với nhau, bên cạnh
những thuận lợi, lại có những cấn cái rất khó. Trong trường hợp như Vơ
Nguyên và ḿnh, người ta hoặc là quá nể nang nhau, quá khen ngợi nhau,
hoặc quá nghiêm ngặt với nhau. Có lẽ ḿnh thuộc loại nghiêm ngặt chăng?
Nghiêm ngặt để giữ thể cách cho Vơ Nguyên và cả cho bạn của Vơ Nguyên là
ḿnh chăng?
Nhưng trên tất cả mọi điều là t́nh thân bạn bè giữa Vơ Nguyên
và ḿnh.
Chúng ta quen nhau, rồi thân thiết với nhau từ bao giờ nhỉ?
Không phải thoáng chốc, mà từ năm học 1973 – 1974 kia đấy.
Ngày đó, chúng ta cùng chung một lớp ở Trường Trung học Phan Châu Trinh,
Đà Nẵng. Tiếp đến, chúng ta lại cùng chung với nhau một lớp ngữ văn (1974
– 1978) ở Đại học Sư phạm Huế. Tốt nghiệp, một vào xứ biển Thuận Hải (B́nh
Thuận – Ninh Thuận), một vào miền núi Lâm Đồng… Mười mấy năm gần đây, từ
ngày ḿnh vào TP. HCM., Vơ Nguyên và ḿnh lại có nhiều dịp gặp gỡ nhau.
T́nh thân, lại là t́nh thân lâu dài, mới là điều đáng nói.
Tuy vậy, đây là chuyện văn chương chữ nghĩa, nghiêm ngặt là
điều không đúng, nhưng nghiêm túc lại là vấn đề đâu phải không cần thiết.
Phải vậy không, Vơ Nguyên thân mến?
Vả lại, bài viết của ḿnh về tập thơ
Lời cho người hát chia
tay của Vơ Nguyên cũng chỉ là những điều ḿnh chân thành cảm nghĩ về
lĩnh vực thứ yếu của Vơ Nguyên mà thôi. Dẫu sao, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm
cũng đă trang trọng đề tựa cho tập thơ ấy.
Lĩnh vực chính yếu của Vơ Nguyên vẫn là văn xuôi. Thầy Nguyễn
Đăng Mạnh, giáo sư văn chương đồng thời cũng là nhà lí luận phê b́nh văn
học tên tuổi, đă làm việc đó, cho dù mới chỉ qua bài tựa
“Vài ư nghĩ về tập truyện
của Vơ Nguyên” – tập truyện đầu tay. Một số giải thưởng và bài
viết trên các báo, tạp chí cũng góp phần khẳng định những đặc sắc của
truyện ngắn Vơ Nguyên.
T́nh thân, lại là t́nh thân lâu bền, mới là điều đáng nói. Và
không chỉ thế, chúng ta lại có cả t́nh văn nghệ chân thành nữa; và văn
nghệ lại là điều tâm huyết, chẳng “phê b́nh” nhau mà được sao? Cần phải
“phê b́nh” đến mức “tận t́nh” mới thật là thân thiết!
Đùa … một cách nghiêm túc đấy nhé!
Vơ Nguyên thân mến,
Ḿnh kết thúc bài viết về tập thơ
Lời cho người hát chia
tay của Vơ Nguyên bằng lá thư này, như một cách khẳng định những ǵ
ḿnh viết trong bài là hết sức nghiêm túc. Nếu có chút nào nghiêm ngặt,
cũng chẳng sao, phải không Vơ Nguyên?
Gửi đến Vơ Nguyên lời chúc, niềm hi vọng thành công về những
tập truyện ngắn bạn chưa xuất bản, cuốn tiểu thuyết bạn ấp ủ bao năm và
đang viết, tập thơ một ngày gần đây sẽ “tŕnh làng” của Vơ Nguyên.
Chúc sức khoẻ và hạnh phúc. Cho gửi lời thăm tổ ấm Yến Sào
quư báu – gia đ́nh thân yêu – của bạn.
Thân ái.
Khởi viết từ 11 giờ đúng
ngày 08. 10. HB4 (25. 8. G. thân HB4);
Viết xong vào lúc 15 giờ
21 phút ngày 09. 10. HB4 (26. 8. G. thân HB4).
TRẦN XUÂN AN
(1) Vơ Nguyên (tên thật là
Vơ Văn Tám, bút danh trọn vẹn ban đầu là Vơ Trung Nguyên), Bản hoà âm
thôn dă (BHÂTD.), tập truyện ngắn, Hội Văn học – nghệ thuật B́nh Thuận
xuất bản, 1994; Vó ngựa đêm khuya (VNĐK.), tập truyện ngắn, Nxb.
Thanh Niên, 1997 (tổng cộng hai tập gồm 19 truyện ngắn); Lời cho người
hát chia tay (LCNHCT.), tập thơ, Nxb. Văn Học, 2000.
(2) GS. Nguyễn Đăng Mạnh,
Vài ư nghĩ về tập truyện của Vơ Nguyên, BHÂTD., sđd., tr. 3 – 4.
(*) Giải truyện ngắn hay
1991 – Hội Nhà văn TP. HCM., Tạp chí Văn & Bns. Kiến Thức Ngày Nay; giải
hồi kí và truyện ngắn hay 1992 – Báo Giác Ngộ; giải truyện ngắn và thơ hay
1992 - 1993 – Hội VHNT. Nghĩa B́nh.
(3) GS. Nguyễn Đăng Mạnh,
bài đă dẫn, BHÂTD., sđd., tr. 4.
(**) Hoà âm điền dă,
bản tái bản gần đây của Nxb. Đà Nẵng, 1990, có tên là Khúc nhạc ḷng của
vị mục sư, tuy vẫn đề tên dịch giả là Vân Mồng (Bùi Giáng)! Và trước đây,
bản dịch tiếng Việt của Dưỡng chất trần gian (đúng nghĩa nguyên văn),
có tên sách là Trần gian muôn màu, dịch giả Lê Thanh Hoàng Dân, Mai
Vi Phúc, Nxb. Trẻ (cũ), Sài G̣n, 1973. Chủ yếu Vơ Nguyên tiếp thu những
yếu tố tích cực từ Dưỡng chất trần gian.
(4) LCNHCT., sđd., tr. 52.
(5) LCNHCT., sđd., tr. 33.
(6) LCNHCT., sđd., tr. 57.
(7) LCNHCT., sđd., tr. 19 –
20.
(8) LCNHCT., sđd., tr. 17 –
18.
(9) LCNHCT., sđd., tr. 28 –
29.
(10) LCNHCT., sđd., tr. 38.
(11) LCNHCT., sđd., tr.
31.
(***) Nguyễn Nhược Pháp,
Ngày xưa, Nxb. Văn Học tái bản, 1987.
Đă gửi:
Vơ Nguyên Ngày (10. 10.
2004)
Tạp chí Biển Xanh (Hội Văn nghệ B́nh Thuận, 10. 10. 2004).