luận
CỦA NHỮNG NGƯỜI
CÙNG THỜI
trang 2
Cũng có thể xem tại:
http://www.tranxuanan-trangcnncthoi.blogspot.com
(các links thuộc 1asphost
có khi bị trở ngại)
2
NGUYỄN
VĂN HOÁ
nguyên
chủ biên Tạp chí điện tử Giao Điểm
(California, Hoa Kỳ)
Vài lời của người
sưu tập:
Có lẽ khá nhiều
người đọc sẽ không đồng ư về một vài chi tiết nào đó trong hai bài
viết của ông Nguyễn Văn Hoá dưới đây, nhất là ở bài thứ hai, bởi dăm
ba đoạn viết về chế độ Diệm – Nhu một cách hơi cảm hoài, mặc dù tác
giả thừa nhận cái chết của họ là phù hợp với lẽ phải. Nhưng tôi tin
chắc rất nhiều người sẽ nhất trí với ông Nguyễn Văn Hoá về nhận định
chung nhất xuyên suốt qua tất thảy ḍng chữ của ông: vai tṛ đáng giận,
đáng trách của Thiên Chúa giáo trong cuộc chiến tranh 117 năm (1858 –
1975) trên đất nước Việt Nam chúng ta.
TXA.
Mấy ghi nhận sau khi
đọc
“Linh
mục Trần Lục -- Thực chất
con người & sự nghiệp"
của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc
Nguyễn Văn Hóa
Ghi nhận một: đối
thoại là cuộc chạy đua về lư luận
Theo các
từ điển Hán - Việt đă xuất bản, từ "đối" trong đối thoại có một định
nghĩa chung là sự đáp lại, trả lại, một cặp, một đôi; "thoại" là lời nói,
nói chuyện. Trong ngôn ngữ Anh - Mỹ, danh từ dialogue (đối thoại),
ư nghĩa được mở rộng ra là một cuộc trao đổi hay tranh luận giữa những
người có ư kiến khác nhau.
Nếu đang
là một cuộc tranh luận, đối thoại chưa hẳn sẽ đi tới kết luận chung cuộc
là ai đúng, ai sai; nhưng ít ra nó cũng tŕnh bày cho những người tham
dự hay chiếu cố tới cuộc đối thoại những sự kiện, lư lẽ, chứng minh một
lập luận để t́m ra chân lư, sự thật. Tuỳ theo tính chất của các cuộc đối
thoại, lập luận ở mỗi phía sẽ tạo ra những tiền đề và tổng hợp đề khác
nhau; nhưng tổng hợp đề này vẫn nằm trong phạm trù tư duy, lư luận. Sử
học không dừng lại ở phạm trù tư tưởng, bởi mỗi một biến cố lịch sử là
tác động do con người tạo nên. Tác động ấy là kết quả từ tư tưởng, và
cũng có thể là nguyên nhân cấu tạo tư tưởng. Nghiên cứu lịch sử c̣n là
sự khảo sát các biến cố ấy: nguyên nhân, sự kiện và hậu quả của nó.
Đọc
trong Kinh Thánh Cựu Ước có đoạn: "Chúa trời là người đàn ông của
chiến tranh. Gia Vê là tên của ông ta. Bàn tay phải của Người, ôi Gia Vê,
xé tan từng mảnh quân thù" (Moses, Exodus 15: 3,6-7). Nếu chỉ nghiên
cứu về tư duy tôn giáo thuần tuư, đoạn Kinh Thánh này vẫn c̣n thuộc phạm
trù lư luận; nhưng nếu nghiên cứu sự h́nh thành và phát triển của đạo
Gia-tô La Mă (lịch sử tôn giáo), buộc ḷng người nghiên cứu phải liên hệ
các biến cố lịch sử đẫm máu của đạo này tạo nên, có quy luật biện chứng
nào không giữa tư duy (Kinh Thánh) và các biến cố cụ thể (lịch sử). Do
đó nghiên cứu sử học trước hết là truy tầm về sự thật của quá khứ.
Vậy th́
những người viết sử mà không tôn trọng sự thật, không biết hoặc là cố
t́nh không dùng đến các phương pháp, phương tiện để khảo sát sự kiện,
không có bằng cớ, chứng tích của sự thật th́ không thể gọi là những nhà
sử học. Tệ hơn nữa, có người viết sử lại bóp méo sự thật, dùng một phần
của sự thật để xuyên tạc, biện minh cho sự bất chính của quá khứ, mong
cầu cho một tương lai vô minh, người ta đă nôm na gọi họ là những nhà
nguỵ sử.
Sử học
không thể là "một môn học lư giải và tiên liệu mọi biến chuyển của xă
hội, từ quá khứ qua hiện tại, suốt đến tương lai" (Đỗ Thái Nhiên, "Người
trí thức", Nhân Văn, tháng 8/1991, tr.16). Nếu sử học là một môn học 'lư
giải' các biến cố, sự kiện do con người tác động, người ta có thể 'lư
giải' các biến cố, sự kiện ấy từ xấu thành tốt, từ bất chính thành chính
nghĩa, từ phản dân hại nước thành những kẻ có công với đất nước.
"Cụ Sáu"
Trần Lục là một nhân vật xuất thân từ Phát Diệm miền Bắc Việt Nam, một
linh mục Gia-tô giáo, kẻ đă hợp tác với thực dân Pháp, với Giáo hội Mẹ
(Vatican) để chống lại những người yêu nước bằng các hành động cụ thể (mà
hầu như một học sinh trung học hay đại học Việt Nam có học đến sử Việt,
đều biết đến ít nhiều) – giờ đây được tuyên dương là một vĩ nhân của dân
tộc là một việc làm phản lại sử học. Cuốn sách “Trần Lục” (một tuyển tập
của 22 nhà trí thức GiaTô, từ khoa bảng cho đến các chức tôn giáo, xuất
bản năm 1996 ở hải ngoại) đă làm công việc phản sử học này.
Cho nên
khi đọc "Linh mục Trần Lục ..." của hai tác giả Bùi Kha và Trần
Chung Ngọc, tôi không cho đó là một cuộc đối thoại giữa sự khác biệt về
tư duy và chính kiến, mà là một vạch trần xuyên tạc sự thật lịch sử.
Ghi nhận hai: một
phương pháp không mới, nhưng rất khoa học trong vấn đề viết sử
Sau khi
đi sâu vào nội dung của "LM Trần Lục -- Thực chất...", tôi rút ra
được một số phương pháp mà hai tác giả của cuốn sách này đă áp dụng như
sau:
+ Sử dụng nguồn tài
liệu có giá trị
Thế nào
là một tài liệu sử có giá trị? Theo tôi, tài liệu đó phải xuất phát từ
nhiều liên hệ tới biến cố lịch sử trong thời điểm xảy ra. Tựu trung có
ba lập trường chính: một, của phe liên hệ (trong trường hợp này tài liệu
xuất phát từ Gia-tô giáo); hai, phe đối nghịch (là tài liệu sử của Cộng
sản, của triều Nguyễn và các phong trào Văn thân, Cần vương, của Phật
giáo [thật ra Phật giáo không có tinh thần đối nghịch với Gia-tô, trái
lại Gia-tô coi Phật giáo như kẻ thù, nên tạm xếp vào đây], của những
phong trào kháng chiến nhưng không có màu sắc Cộng sản); ba, phe khách
quan (không có lập trường chính kiến, nhưng tôn trọng sự thật lịch sử).
Giá trị c̣n được chứng thực không chỉ riêng ở các công tŕnh nghiên cứu
được thử nghiệm qua thời gian, mà c̣n ở tiểu sử, công tŕnh nghiên cứu
và sự nghiệp của chính tác giả.
+ Yếu tố thời điểm
lịch sử và bối cảnh xă hội
Thời
điểm mang tính thống nhất trong biến cố lịch sử, v́ cùng một biến cố
không thể có hai sự kiện khác nhau. Nếu thời điểm là [cột mốc,] mô h́nh,
xương sống của các sử gia, th́ bối cảnh xă hội chung quanh thời điểm đó
là những cơ phận để tạo nên nhân dáng hoàn chỉnh, trung thực.
+ Phương pháp đối
chiếu và tổng hợp
Đối
chiếu là sử dụng mọi nguồn tài liệu dẫn chứng để so sánh sự kiện (biến
cố), tính chất (phong trào [có tính] quần chúng, cách mạng), vấn đề (tôn
giáo, hiện tượng xă hội). Thẩm định sự đối chiếu có giá trị hay không
tuỳ thuộc vào yếu tố sử dụng nguồn tài liệu có giá trị hay không. Từ đó,
qua đối chiếu sự tổng hợp sẽ đưa tới một kết luận chân xác.
Tác giả
Bùi Kha sau khi đưa ra sáu nguồn sử liệu để so sánh và phân tích về nhân
vật Trần Lục đă đưa tới kết luận bảy tội củaTrần Lục đối với dân tộc
Việt Nam. Trần Chung Ngọc đă đưa ra năm tội. Tựu trung, tính chất của
các tội này mang những tính chất rất giống nhau, mặc dầu hai tác giả đă
làm việc trong hoàn cảnh riêng lẻ. Điều đó chứng minh có một điểm chung
(common ground) khi người ta đứng trên lập trường dân tộc để nh́n vào
lịch sử.
+ Phương pháp loại suy
Ba yếu
tố nói trên sẽ là trụ chống cho phương pháp loại suy. Tác giả trần Chung
Ngọc đă sử dụng phương pháp này một cách chặt chẽ, khúc chiết: Nếu bạn
đọc đă đọc xong cuốn sách “Trần Lục" (của 22 tác giả Gia-tô),
thấy c̣n lấn cấn về các suy nghĩ như: Trần Lục thưc sự là một vĩ nhân?
Thế nào là một vĩ nhân? Vĩ nhân nhờ vào thành quả: công tŕnh kiến trúc
xây nhà thờ Phát Diệm, một linh mục nhưng được triều đ́nh nhà Nguyễn
phong đến bốn tước vị; người đă đóng góp tích cực vào việc truyền đạo,
mở mang nước Chúa ở miền Bắc Việt Nam, th́ hai tác giả Bùi Kha và Trần
Chung Ngọc (trong "Lm. Trần Lục -- thực chất con người & sự nghiệp"
đă chứng minh cho thấy các yếu tố TL là một vĩ nhân, yêu nước, đạo đức
đă bị loại trừ (exclusive), để chỉ c̣n phơi bày thực chất Trần Lục là tu
sĩ phản quốc, kẻ gây đại họa cho dân tộc.
Xét về
Trần Lục như một "anh tài" văn học: Tài văn học của Trần Lục được các
tác giả Gia-tô dựa trên "ba tác phẩm lớn": “Hiếu tự ca” (1085 câu),
“Nữ tắc thường lễ” (1016 câu), “Nịch ái vong ân” (440 câu).
Nội dung ba tác phẩm lớn này là những bài vè làm theo thể lục bát. V́ là
những bài vè dông dài như vậy, cho nên tôi chỉ nêu ra một số câu tiêu
biểu mà tôi cho là hay nhất trong số vài ngàn câu trên:
"Phần
hồn th́ Chúa sinh ra
Xác này
Chúa phó mẹ cha sinh thành..."
Để răn
dạy phụ nữ Gia-tô:
"Đường
kim mũi chỉ đàn bà
Nhiều
khi đă thấy như là đỉa ngoi
Thôi th́
học lấy cho rồi
Khéo
người làm thợ, vậy tôi vá quần..."
Thật là
khó cho tôi không biết phải diễn tả thế nào cho phải về "anh tài văn học"
của ông Trần Lục qua ba tác phẩm nói trên. Vậy xin nhờ nhà lư luận văn
học Nguyễn Hưng Quốc, hiện ở nước Úc, kẻ từng gây "chấn động" giới văn
học hải ngoại và trong nước qua tài biến bài thơ "Con cóc" thành
bài thơ hay, may ra tài văn học của Trần Lục sẽ được thể hiện.
Tóm lại,
với phương pháp loại suy trong tác phẩm "Lm. TL. ...", hai tác
giả đă đặt yếu tố con người thành hai vế đối nghịch và người đọc đă có
thể dễ dàng chọn lựa câu trả lời chân xác (có yếu tố này th́ không thể
có yếu tố kia):
Hèn mọn
/ Vĩ nhân
Tiểu tốt
/ Anh tài
Phản
quốc / Yêu nước
Sát nhân
/ Đạo đức
Giảo
hoạt / Chân thật
Kẻ cuồng
tín ngu muội / Yêu Chúa sáng suốt.
Ghi nhận ba: trí thức
Gia Tô và "vết lăn trầm"
Mặc cảm
là một khái niệm của phân tâm học. Freud đă khai triển khái niệm này và
phân chia thành hai loại: Mặc cảm Oeudipe và mặc cảm Electra. Mặc cảm
của con người là khởi động xuất phát từ một "ẩn ức sinh lư", mặc cảm
Oeudipe là mặc cảm của con trai yêu mẹ ghét cha được Freud triển khai
[qua việc nghiên cứu] vở kịch Hamlet của Shakespeare; hay mặc cảm
Electra là mặc cảm của con gái yêu cha ghét mẹ. Theo khái niệm mặc
cảm phổ quát, các nhà tâm lư học phân chia mặc cảm có hai cực: tự
tôn (superior complex) và tự ti (inferiority complex). Mặc
cảm tự tôn và tự ti là hai trạng thái tâm lư rất khó phân biệt, dễ lẫn
lộn, nên có nhiều "thức giả" đă sử dụng nó để gán ghép cho người khác
nhiều khi không đứng đắn và chính xác. Thí dụ sau khi chế độ Miền Nam
sụp đổ, người ta đă cho rằng các cán binh, dân chúng Miền Bắc do mặc cảm
tự ti v́ sự quê mùa, nghèo nàn và lạc hậu qua cách ăn bận, cử chỉ, vóc
dáng... của họ nên đâm ra thù ghét dân chúng Miền Nam... Mặt khác, các
thành phần lănh đạo ở Miền Bắc v́ tự tôn qua chiến thắng, nên trong các
bài tham luận diễn văn, lúc nào cũng dùng danh từ đao to búa lớn: đánh
cho Mỹ cút, ngụy nhào v.v... Người nghèo có mặc cảm tự ti về sự thua kém
kinh tế. Người giàu có tự tôn về sự giàu sang...
Có người
(phần nhiều là thành phần trí thức Gia-tô) cho rằng Phật Giáo v́ mặc cảm
"thua kém" quyền lực, giàu sang, địa vị xă hội, học vấn... (họ thí dụ
như các tu sĩ Phật Giáo "ít học", không biết chữ Tây, chữ La Tinh, toán
học, âm nhạc... [sic] như các tu sĩ Gia-tô) nên đố kỵ và thù ghét với
đạo Gia-tô La Mă. Dư luận này rất gần gũi với tinh thần của cựu giáo sư
khoa trưởng Lê Hữu Mục trong cách phân tích hạ nhục phong trào Văn thân
và Cần vương và đề cao ông "cụ Sáu" Trần Lục mà Trần Chung Ngọc đă vạch
ra. Đây là đề tài chỉ sợ giới đồng bào b́nh dân lầm lẫn thôi, cho nên
cho phép tôi được nhắc lại rằng tinh thần Phật giáo là tinh thần "vượt
ngă", tự thắng lấy bản thân của ḿnh. Những lời Phật dạy chỉ là phương
tiện để đạt tới chân lư. Và sự đánh mất mặc cảm (tôn hoặc ti) chỉ là nỗ
lực nhỏ, bước đầu trong chiều dài nỗ lực để tự thắng lấy bản thân. Dĩ
nhiên những người trí thức Gia-tô không chấp nhận con đường tự thắng như
vậy, bởi họ không thể đạt được nỗ lực tự thắng bản thân nếu không có sự
"hiệp thông" qua ư muốn của Thiên Chúa hay nhận được ân sủng ban phát
của Mẹ Maria. Vậy nh́n qua phạm trù con-người-phổ-biến (trong đó bao gồm
trí thức Gia-tô), không có năng động để tự thắng ḿnh, ta có thể gọi con
người trí thức Gia-tô là con người hội tụ của mặc cảm tự ti lẫn tự tôn,
như một bàn tay sấp ngửa, không có ranh giới phân định.
Tinh
thần mặc cảm này được thể hiện qua thực tính (nói theo ngôn ngữ triết
học) và lư luận:
+ Mặc
cảm tự ti về nguồn gốc (nghèo khổ, bần cùng). "Theo đạo có gạo mà ăn"
là một sự kiện lịch sử chứ không phải là chuyện gièm pha, bôi bác.
+
Phản dân, hại nước: Theo đạo c̣n là h́nh thức tôn sùng các linh mục
truyền giáo (cha cố) nước ngoài như thành phần lănh đạo của ḿnh (phần
hồn lẫn phần xác), mà các linh mục này với đội quân đi xâm chiếm đất đai
chỉ là một, dù hai bên có công tác và mục tiêu khác nhau; do đó sự hợp
tác giữa thành phần theo đạo bản xứ với đội quân xâm lược là điều không
thể tránh khỏi. Triều đ́nh nhà Nguyễn chống lại quân xâm lược Pháp (là
việc hiển nhiên) và chống luôn cả đạo Gia-tô (có lư lẽ lịch sử khác nữa)
đă làm cho hành động theo Pháp chống lại triều đ́nh nhà Nguyễn và chống
luôn những người yêu nước (như Văn thân, Cần vương, Kháng chiến...) của
người Gia-tô là có "chính nghĩa" theo lư lẽ riêng của họ.
+
Đánh mất căn tính dân tộc: Đạo Phật truyền bá đến Việt Nam từ bên
ngoài. Tư tưởng Lăo, Khổng cũng vậy. Tuy vậy tính chất tôn giáo và căn
nguyên lịch sử rất khác biệt với Gia-tô giáo. Điều quan trọng là tính
chất của "Tam giáo" ấy là căn tính của văn hóa dân tộc, gọi là dân tộc
v́ nó đă trở thành "xương thịt" của con người Việt Nam. Như vậy tính
chất dân tộc không xác định từ yếu tố tôn giáo truyền bá từ ngoài hay
không, nhưng từ bản chất và nội dung của tôn giáo ấy. Tính chất thờ
phượng, tôn kính, giáo lư của đạo Gia tô làm cho họ (nhất là thành phần
trí thức) luôn luôn cảm thấy con người đích thực của chính ḿnh bị đánh
mất. Con người thực của ḿnh không c̣n, th́ văn hóa dân tộc (Việt) trở
thành yếu tố ly tâm.
+ Mặc
cảm thua trận: Nếu tất cả chúng ta đều đồng ư một cách dễ dăi rằng –
chỉ có đạo Gia-tô mới chống Cộng [thật ra đây là một lầm lẫn từ hệ quả
lịch sử] th́ người Gia-tô Việt Nam chính là những kẻ thua trận. Mặc dầu
đây là sự kiện lịch sử bi hài hết sức, nhưng nó ẩn và động trong chiều
sâu tiềm thức của trí thức Gia-tô (điều này không thể lầm lẫn: đa số các
chức vụ trọng trách trong hai chế độ chống Cộng miền Nam đều nằm trong
tay các tín đồ Gia-tô: hành chánh, quân sự, chuyên môn). Thua Cộng sản
có nghĩa là mọi giá trị "tự tôn xưng" của họ bị sụp đổ trước một giá trị
mà họ cho là "ngu dốt, ma quỷ, tàn ác...". Chạy ra nước ngoài, thế lực
Gia-tô càng thành công về mặt vật chất th́ càng cay đắng về mặt tinh
thần. Ở đất người, Chúa ở cận kề, sao vẫn thấy u uất, đắng cay khao khát
về một quê hương cho chính xương thịt và tâm hồn ḿnh (!). Có lẽ đây là
niềm đau lớn nhất của chất xám Gia-tô.
+ Mặc
cảm tự tôn: Sự tự ti nếu không bộc lộ ra bên ngoài, nó lại được che
đậy qua ngôn từ, dưới dạng ẩn dấu trong tiềm thức. Trái lại sự tự tôn
như một trái banh x́ hơi, nó tuôn ra hết ở bên ngoài. Sự tự tôn của
người Gia tô đến từ một thực thể: từ nghèo hèn đă trở thành những kẻ
giàu sang, từ thất học (hoặc không thể học) đă trở thành những trí thức
khoa bảng: tiến sĩ, giáo sư, khoa trưởng, bộ trưởng, tổng thống... Phú
quư sinh lễ nghĩa. Sự tự tôn của trí thức Gia-tô gia tăng, chồng chất
theo trọng lượng vật chất tích lũy. Chất xám Gia-tô bỗng dưng tự cưu
mang cho ḿnh một trọng trách về tinh thần: xóa bỏ triệt để hết nguồn
gốc, dấu vết lịch sử không đáng nhớ, cố mang thêm một bộ áo văn
hóa dân tộc vào lớp da bọc của ḿnh [nhấn mạnh - bt.]. Nh́n thấy
được hiện tượng này, chúng ta sẽ không c̣n thảng thốt qua những câu văn
như "chỉ tiếc một điều đạo Công giáo chưa kịp ăn sâu vào ḷng dân tộc
như đạo Phật, cho nên các nhà văn chưa viết được một cuốn "Hồn bướm mơ
tiên" thứ hai"... (1), hay bộc lộ một mặc cảm lịch sử vô phương cứu
chữa "Người dân Phát Diệm nào cũng mang trong ḷng ḍng máu hai h́nh
ảnh quê hương: một quê hương của Lê Lợi, Quang Trung và một quê hương
của Trần Lục, Lê Hữu Tù, Hoàng Quỳnh và Nguyễn Minh Luân"... (2).
Trong
tâm cảm "t́m về dân tộc", hay khát khao một biểu tượng anh hùng dân tộc,
người trí thức Gia-tô có thể vấp phải những cái mâu thuẫn, dấm dớ, đôi
khi lố bịch... v́ Dân tộc, Anh hùng Dân tộc là những thứ họ thiếu hoặc
không thể có. Tận đáy ḷng của một người Việt Nam, chúng ta sẵn sàng tha
thứ, bởi có những đau thương đẫm máu mà qua thời gian vẫn có thể xóa
nḥa, độ lượng với nhau, huống chi là những đoạn văn vụng về, những ư
tưởng bơ vơ, lạc loài. Nhưng chúng ta không thể chấp nhận sự vụng về, lố
bịch ấy bỗng một ngày biến thành một hệ thống tư tưởng nhằm sửa đổi lịch
sử, đổi trắng thay đen, biến tội ác trở nên lương thiện, biến phản quốc
trở thành yêu nước, biến một kẻ tầm thường, tiểu tốt trở thành vĩ nhân
của dân tộc!
Nguyễn Văn Hóa
9/2000
Ghi chú
(1,2)
Nguyễn Trọng, "Phát Diệm là ǵ?", tr. 197, Kỷ yếu Phát Diệm 1891- 1991,
tuyển tập, Nguyệt san ĐMHCG phát hành 1992, Hoa Kỳ.
Nguồn:
Tcđt. Giao Điểm
http://www.giaodiem.com/sach/tranluc.htm
Bài thứ 2
Từ Ánh Đuốc Quảng Đức,
nh́n lại mâu thuẫn
của dân tộc
Nguyễn Văn Hóa
Vào đề:
Đầu tháng 5/1963, tôi đang học lớp Đệ lục của trường La San Phú Vang
(La Salle de Phu Vang), một chi nhánh của trường B́nh Linh (Pellerin) mở
rộng. C̣n hai năm nữa th́ chuẩn bị nhập học vào trường B́nh Linh qua sự
lựa chọn những học sinh học khá. Dĩ nhiên tôi ở vào trong số này, nên
học rất ngoan... Ngày tháng 5 ở Huế trời bắt đầu nóng nực, cả lớp tôi
được triệu tập để đi dự lễ mừng Ngân Khánh của giám mục Ngô Đ́nh Thục
tại sân trường B́nh Linh. Học sinh các trường La San khác tụ về cũng khá
đông. V́ đứng ở hàng cuối sân, nên tôi không nh́n rơ mặt ông giám mục,
chỉ thấy ông bận một bộ đồ lễ tu sĩ đỏ chói, có đường viền, có một chiếc
dây vải kim tuyến để tḥng một bên, ông ngồi trên chiếc ghế bành lớn,
trông oai nghi lẫm liệt như một ông vua từ các nước xa lạ nào đó... Thủ
tục lễ lạc rườm rà quá, trời nóng mồ hôi chảy thấm lưng, trông mau mau
mà về nhà cho rồi...
Đến sáng ngày 8 tháng 5 (lớn
lên mới suy ra được là đúng ngày 8), tôi đạp xe đạp từ làng Chuồn lên
chùa Diệu Đế, nghe thuyết pháp. Giọng ông thầy nào nghe mà hùng hồn, oai
quá ! (V́ đến trễ nên không biết có phải thầy Trí Quang không? Thầy Trí
Quang th́ cả thành phố Huế ai cũng biết, nhưng lâu quá quên mất rồi !).
Nghe thuyết pháp mà đất trời như nở ra, phố phường như ngưng đọng, tôi
bỗng tự thấy ḿnh thật là nghiêm trọng. Nghe thuyết pháp xong rồi đạp xe
về nhà (làng) ăn cơm, buổi chiều lọt tọt đạp xe lên phố nữa, tới trước
Đài Phát thanh, dừng lại. Lúc ấy trời vừa chạng vạng tối, đồng bào bắt
đầu kéo tới đông, nhưng sao mấy ông cảnh sát mặc đồng phục áo trắng quần
xanh lam bắt đầu thổi c̣i, đưa tay chỉ chỏ chỗ này chỗ nọ, chạy qua chạy
về. Coi bộ hơi lộn xộn, coi bộ bất thường rồi. H́nh như chính quyền
không ưa Phật giáo? Nhưng sao trời mau tối quá, chết cha, lỡ kẹt đây có
chuyện ǵ không hay th́ mẹ tôi ở nhà lo lắng làm sao ! Thôi đạp xe về,
nhưng đầu c̣n ngoảnh lại...
Thế rồi ngày mai ngày mốt
ngày tê, mỗi ngày là một biến động, mỗi ngày là một tin mới lạ..., cho
đến đêm mồng 1 tháng 11, ở căn gác chú Thọ mở chiếc radio transistor
hiệu Philips tối tân ... cả làng mới có một hai chiếc, ba người nếu kể
thêm anh Nguyễn An (sau này là nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên) lắng tai, ngưng
thở nghe đài BBC đưa tin Sài G̣n đảo chánh... Quả thật là nghiêm trọng!
*
* *
I. Nghiệp khởi: đêm đẫm
máu 8/5/63 tại Đài Phát thanh Huế
Cách đây chừng hai tuần
tôi ghé vào một tiệm sách Việt Nam, tay cầm lên cuốn "Sử Việt đọc vài
cuốn" của Tạ Chí Đại Trường. Định bụng sẽ mua, nhưng nh́n lại vào
túi tiền thấy cần mua hai cuốn sách khác, nên thôi. Nhưng về nhà rồi mà
ḷng c̣n vướng vất về cái tựa đề của cuốn sách. Tạ Chí Đại Trường là tác
giả nghiên cứu sử mà tôi thích. Khách quan mà nói, các cuốn sách về sử
học của ông không chê vào đâu được. Chủ quan, tôi thích lối viết sử dùng
triết và phân tâm để soi chiếu vào những sự kiện tác động vào lịch sử.
Sự kiện lịch sử (historical facts) là những hiện tượng khách quan, v́
vậy nếu viết sử chỉ căn cứ vào sự kiện để lư giải cho một chủ đích ḿnh
mong muốn, sự kiện có khi biến thành những dữ kiện "chết", công cụ vô
nghĩa. Do đó, viết sử cần phải nh́n vào tổng thể của xă hội, thời điểm,
thời đại và con người - tư tưởng và ư chí, là những chủ thể tạo ra biến
cố và sự kiện lịch sử.
*
* *
Sự kiện lịch sử của biến
cố đẫm máu tại Đài Phát thanh Huế vào đêm mồng 8/5/1963, cách nay đă 42
năm, là cái mốc lịch sử đưa tới sự sụp đỗ của chế độ Đệ nhất Cộng ḥa.
Trong quăng thời gian này đă có vài trăm, hoặc ngàn cuốn sách đủ loại
ngôn ngữ đề cập đến nó đă xuất bản. Xét đến một số sách hồi kư, nghiên
cứu sử về giai đoạn này, đa số có sự trùng hợp về sự kiện. Vấn nạn về kẻ
chủ động tạo nên biến cố cho đến nay vẫn c̣n nhiều tranh căi, thường
xuất phát từ những cảm tính thương, ghét, hay v́ những mục tiêu chính
trị phe nhóm nào đó.
Do đó, nhân cơ hội tôi
trao đổi với một nhân chứng ở cấp thấp, có mặt ở đêm hôm đó cũng là điều
bổ túc hữu ích. Người được phỏng vấn là người chú họ, chồng của người O
tôi [không phải là O (bà Cô) ruột] tên là ĐHN (ông xin được giấu tên).
Ông có quan hệ bà con sao đó với một ông làm Bộ trưởng Phủ Th. T. của
chính quyền Sài G̣n cũ. Bà Cô tôi có người cháu ruột là anh TTPS từng
gia nhập Trường Hải quân Nha Trang, rồi đi du học Mỹ lấy bằng kỹ sư đóng
tàu. Chức vụ sau cùng ở miền Nam trước 1975 là hạm trưởng hải quân, hiện
đang cư trú với gia đ́nh ở Pháp.
Tôi mất liên lạc với gia
đ́nh chú ĐHN sau ngày tôi vượt biển (cuối năm 1980). Cách nay vài năm,
chú ĐHN bắt được liên lạc với tôi khi được định cư ở Mỹ. Gặp nhau ông kể
cho tôi nghe chuyện vượt biên của ông khá ly kỳ: Sau ngày vợ ông mất,
ông vượt biên đường bộ qua Campuchia, sang được đất Thái, được sắp xếp
vào ở trại tị nạn dành cho những người vượt biên đường bộ. Thời gian đó
là năm 1995, các trại tị nạn ở Thái Lan đă bắt đầu giải tỏa, ông bị
chính quyền Thái trả về Việt Nam, rồi từ Sài G̣n, ông được phái đoàn Mỹ
phụ trách chương tŕnh người Việt được ra đi trong trật tự gọi phỏng vấn
và được chấp thuận đi Mỹ vào năm 2000.
Ông ĐHN năm nay chừng 74
tuổi. Năm 1953, ông t́nh nguyện theo học khóa trung đội trưởng (brevet
chef de section) để bổ sung vào lực lượng quân đội Nam triều (dưới quyền
vua Bảo Đại). Đầu năm 1954, ông được chuyển ra Bắc học bổ túc thêm khóa
"Commando Bắc Việt". Lúc ấy lực lượng quân sự của vua Bảo Đại (thực tế
là do Pháp đỡ đầu và chỉ huy) c̣n phôi thai và quân số ít ỏi, nên các
thành phần như ông khi ra trường thường được giữ chức vụ chỉ huy đại đội.
Ông ĐHN ra trường "Commando BV" một thời gian rất ngắn, đơn vị ông trong
một trận đụng độ với Việt Minh, ông bị thương làm mù hẳn một con mắt.
Năm 1955, dưới chính
quyền được ủy nhiệm của Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm, ông ĐHN được chuyển qua
đại đội hành chánh, đóng ở Mang Cá (Huế). Cũng trong năm này, ông được
thuyên chuyển về Tổng Nha Cảnh sát Sài G̣n dưới quyền của tướng Nguyễn
Ngọc Lễ. Trong thời gian làm việc ở cơ quan này, nhân một buổi t́nh cờ
gặp gỡ ông Nguyễn Đôn Duyến (trước đó giữ chức thủ hiến Trung Việt) đang
chuẩn bị nhận chức vụ đại sứ tại Lào, ông ĐHN được nhận làm tùy viên
quân sự. Hơn một năm sau, ông lại được chuyển qua làm việc cho Ṭa Đại
sứ VNCH ở Thái Lan thêm một năm nữa, rồi ông làm đơn xin trở về nước.
Năm 1957, ông ĐHN làm
việc cho ngành cảnh sát với với cấp bậc thẩm sát viên "đồng hóa", tăng
cường nhân số cho ngành hành chánh tỉnh cho đến năm 1963. Biến cố đàn áp
đẫm máu phật tử đêm 8/5/1963 tại Đài Phát thanh Huế (Đài PT), ông là một
nhân chứng tại hiện trường ở cấp thừa hành của chính quyền địa phương.
Dưới đây là cuộc phỏng
vấn "bỏ túi" của tôi:
Hỏi: --Thưa chú, nhiệm vụ
của chú ở cấp thừa hành của ngành cảnh sát vào đêm 8/5/63 tại Đài Phát
thanh Huế, đă làm ǵ?
ĐHN:
-- Lúc đó chú thuộc Lực lượng Đặc biệt của Ty Cảnh sát Thừa Thiên (CSTT),
dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đặng Phong - trưởng ty CSTT và ông Hồ
Đắc Vang - phó trưởng ty kiêm Lực lượng Đặc biệt. Chú được lệnh tăng
cường để bảo vệ an ninh Đài phát thanh. Đêm hôm đó, trưởng toán của chú
là trung úy Th́n; ông ta chỉ huy một toán chừng 20 - 30 người, đến kiểm
soát bên góc phía hữu của Đài phát thanh dưới chân cầu Tràng Tiền. Ông
Hồ Đắc Vang là người chỉ huy tổng quát, nhưng người có quyền hạn thực sự
để ra lệnh hành động tại chỗ là thiếu tá Đặng Sỹ -- phó trưởng Ty Nội
an.
Hỏi: --Tại sao ông Đặng
Sỹ cấp nhỏ hơn lại có quyền "ra lệnh hành động"?
ĐHN:
-- Là bởi Đặng Sỹ có thế của chính quyền và nhất là tôn giáo. Ông là một
tín đồ Thiên Chúa giáo.
Hỏi: -- Theo chú, tại sao
chỉ để bảo vệ an ninh cho một buổi phát thanh của ngày Lễ Phật đản mà
phải tăng cường lực lượng của chính quyền nhiều như vậy? Lực lượng bảo
vệ an ninh gồm có những ai? Và hiện trường lúc đó xảy ra thế nào?
ĐHN:
-- Ngay từ chiều, chú đă được lệnh là sẽ tập trung để tăng cường bảo vệ
an ninh Đài phát thanh Huế. Quan sát hiện trường lúc đó, chú thấy quần
chúng phật tử các giới đă tụ tập phía trong và phía trước Đài PT. rất
đông, ước chừng cả ngàn người, đứng tràn ra hàng rào phía ngoài đường.
Toán của chú bận đồ thường phục, có mang súng nhỏ, đứng cách hàng rào
Đài PT chừng vài chục thước, bên hàng cây dừa sát bờ sông. Lực lượng
chính quyền th́ có: Cảnh sát dă chiến, cảnh sát thường phục, cảnh sát
mật vụ. Chừng sau 9 giờ tối, bỗng dưng có tiếng nổ rất lớn vang dội;
chừng một lát sau th́ thấy xuất hiện lính nhảy dù và đơn vị Hắc Báo tăng
cường thêm.
Hỏi: -- Vậy thưa chú,
tiếng nổ lớn ấy có phải là do lựu đạn và lựu đạn loại ǵ? Có nhiều sách
sử ở nước ngoài nói đó là ḿn Claymore. Dưới đôi mắt nhân chứng của một
cảnh sát ch́m, và với sự hiểu biết của chú lúc đó, sự thật đă xảy ra thế
nào?
ĐHN:
-- Khi tiếng nổ phát ra, toán của chú đứng khá gần nên mục kích rơ. Đó
là lựu đạn "chày". Mục đích của loại lựu đạn này là tạo ra tiếng nổ rất
lớn nhằm gây kinh hoàng cho đối phương ở ngoài trận mạc trước khi tấn
công. Nó không có mục đích sát hại, chỉ tạo ra sự khủng hoảng tinh thần
v́ tiếng nổ gây nên tâm lư hoảng sợ thôi. Loại lựu đạn này to như trái
thơm (trong Nam gọi là "khóm"), có tay cầm dài. Trước khi nổ, loại lựu
đạn này quay quanh chừng 3 ṿng trong mấy chục giây mới nổ. V́ thế ở
ngoài chiến trường, có khi địch thủ dễ dàng cầm nó lên để ném ngược lại
phía ḿnh. Sau này nghe có người nói đó là loại lựu đạn MK-2 hay OF là
không đúng sự thật, v́ MK-2 và OF là loại lựu đạn tấn công để sát hại và
khi ném ra th́ nổ liền. Loại lựu đạn MK-2 có màu xám, loại OF có màu
vàng, MK-2 lớn hơn OF và cả hai có h́nh thù trơn trụi; trong khi loại
lựu đạn nổ đêm đó có h́nh lỗ chỗ y như trái thơm, màu xám tro.
Khi tiếng nổ kinh hoàng
vang lên, đám đông sợ hăi hỗn loạn, có người từ trong chạy ra, chạy tán
loạn tứ phía... Bỗng có vài tiếng la lớn : "Chính phủ đàn áp tôn giáo",
"Chúng ta phải chiếm giữ Đài Phát thanh" v.v... vang lên. Chừng
chưa đầy nửa tiếng th́ các lực lượng quân sự khác đổ đến rất đông, làm
cho hiện trường càng trở nên trầm trọng.
Sau tiếng nổ của lựu đạn,
các lực lượng cảnh sát nổi, ch́m liền nổ súng thị oai. Và tiếp theo là
tiếng súng đủ loại nổ vang rền; có người bắn chỉ thiên, nhưng cũng có
người là cảnh sát hay quân nhân tín đồ Thiên Chúa giáo v́ tâm lư thù
thét Phật giáo (hay được lệnh riêng?) họ bắn ngang vào đám đông Phật tử.
Chừng 15 phút sau, có các
lực lượng quân sự khác được điều động đến rất nhiều, có cả xe tăng (xe
bọc thép), chừng 3, 4 chiếc ǵ đó, lù lù chạy thẳng vào sân Đài Phát
thanh, cán bừa lên cả những chiếc xe đạp dựng ở ngoài hàng rào. Có chiếc
tông đổ luôn hàng rào để bươn vào bên trong, có chiếc chạy thẳng ở cổng
giữa, cán bừa lên đám đông, thẳng trớn phóng lên các bậc tam cấp của cửa
chính rồi dừng lại và án ngữ luôn ở đó.
Hỏi: -- Vậy lúc đó, chú
có bắn theo không? Súng nổ chừng bao lâu th́ dứt? Chú c̣n nhớ xe tăng đó
là loại ǵ ? Có phải là loại xe tăng M113?
ĐHN:
-- V́ đă được lệnh từ đầu, chú có rút súng nhỏ ra bắn, nhưng chỉ bắn chỉ
thiên lên trời thôi. Súng nổ chừng 5, 7 phút ǵ đó th́ ngưng. Lúc ấy
hiện trường đă quá sức trầm trọng, quần chúng Phật tử mạnh ai nấy chạy,
tứ tán. Có người chết và có nhiều người bị thương. Chừng nửa tiếng sau
th́ xe hồng thập tự hú c̣i đến và mang những nạn nhân đi khỏi.
Xe tăng xuất hiện đêm đó
là loại xe tăng của Pháp để lại, chú không biết là loại xe tăng ǵ,
nhưng chỉ nhớ mang máng hai bên nắp phần trên xe có in hàng chữ BM/ MB?
hay VM/ MV? th́ phải. Xe tăng này nhỏ hơn loại xe tăng M113, nhưng có
h́nh dáng tương tự, có ṇng súng dài nhưng ngắn hơn ṇng súng ở loại xe
tăng M113.
Hỏi: -- Nhắc lại ba nhân
vật chỉ huy đêm đó: Đặng Phong, Đặng Sỹ, và Hồ Đắc Vang. Chú có nhận xét
ǵ về ba nhân vật này? Ai mới thật sự là kẻ đă ra lệnh đàn áp Phật tử
đêm đó?
ĐHN:
-- Đặng Phong và Đặng Sỹ là hai anh em ruột, đều là tín đồ Thiên Chúa
giáo hết. Thời đó, họ hay ỷ thế, ỷ quyền vào ông cố vấn Cẩn, ông anh
tổng thống... v́ cho là đồng đạo được cưng chiều nên họ ngang thiên
lắm, muốn làm ǵ th́ làm, muốn bắt ai th́ bắt. C̣n ông Hồ Đắc Vang (người
làng An Truyền) là Phật tử, nhưng cũng ghê lắm, chống cộng ghê lắm...
Ông Đặng Sỹ và ông Hồ Đắc Vang rất "se" sua, thân t́nh với nhau.
C̣n lệnh lạc từ trên, theo chú, quân đội th́ phải theo hệ thống quân
giai, chính quyền cũng vậy, riêng ông Đặng Sỹ nhận lệnh trực tiếp từ ai
th́ chú không rơ.
*
* *
Biến cố đàn áp Phật tử
đẫm máu đêm 8/5/63 c̣n để lại một số khúc mắc, tranh căi cho tới ngày
hôm nay. Để biện hộ cho chế độ, họ tung tin lựu đạn trong đêm đó là do
CS len lỏi ném ra gây chết chóc cho Phật tử, xe tăng không hề cán lên
Phật tử, hơn nữa, đó là "tuần thám xa" (Blinder) bánh cao su (như tài
liệu sử "Tôn giáo & chính trị - Phật giáo 1963 - 67", của Chính Đạo, VH
xb. 1994, trang 28 đă nêu ra, chẳng hạn.). Qua những lời từ nhân chứng
ĐHN, giờ đây đă làm cho sự thật lịch sử được minh bạch thêm.
Trước khi trao đỗi với
chú ĐHN, tôi đă đưa ra lời đề nghị chú cần thẳng thắn, biết sao nói vậy,
nhớ th́ nói không c̣n nhớ rơ th́ thôi, và hỏi thêm theo dư luận nội bộ
của cơ quan chú phục vụ th́ lựu đạn "chày" đêm đó do ai tung ra? Chú ĐHN
chân thành nói: Lựu đạn có thể do Việt cộng hay thế lực đảng phái nào đó
ném ra (ông xin đừng nêu tên đảng phái v́ là sự phỏng đoán, không chắc
chắn) nhằm tạo ra khủng hoảng chính trị, chia rẽ chính quyền và Phật
giáo hầu lợi dụng khai thác cho mục tiêu chính trị. Nhưng ông lại hoàn
toàn đồng ư với lập luận của tôi rằng, nếu lựu đạn do VC ném ra (dù
là loại lựu đạn không nhằm sát hại) th́ chính quyền hẳn phải đàn áp dă
man hơn nữa, và số thương vong sẽ c̣n nhiều gấp bội. C̣n giả như lựu đạn
do đảng phái nào đó lợi dụng để khuynh loát chính trị về sau th́ hẳn
nhiên phải đă có sự "đồng lơa" của chính quyền, v́ lẽ chú đă nhận được
lệnh đi tăng cường bảo vệ an ninh Đài Phát thanh từ hồi chiều, có nghĩa
là chính quyền đă chuẩn bị cho một t́nh huống sẽ xảy ra mà họ đă tiên
liệu trước; và chính chú đă được lệnh có quyền bắn khi nghe tiếng nổ xảy
ra!!! Như vậy đó phải là một âm mưu có tính toán, có kế hoạch của chính
quyền từ trước. Ông ĐHN gật đầu hoàn toàn đồng ư, và im lặng...
*
* *
Vậy, nếu sử Việt chỉ "đọc
vài cuốn", hay đọc vài trăm cuốn đi nữa (trong đó có cả sử sách của
phía nạn nhân là Phật giáo), th́ sự thật không thể chối căi được là
chính quyền Đệ nhất Cộng ḥa đă có âm mưu tiêu diệt Phật giáo, hay tối
thiểu làm tê liệt mọi sự phản đối, đề kháng của Phật giáo, để biến họ
thành một bộ phận xă hội tiêu cực - từ đó từng bước Công-giáo-hóa toàn
bộ xă hội miền Nam, hay ít nữa đạt tới mục tiêu (tạm chấp nhận) là biến
tỉ số dân Công giáo Miền Nam đạt đến con số biểu kiến là đa số. Hệ luận
lịch sử này sẽ làm cho các giả thiết lịch sử "nếu như" ("what if"),
rằng: - không có biến cố đẫm máu đêm 8/5/63 do cộng sản (hay đảng
phái) giựt dây th́ chế độ Diệm - Nhu đă hiệp thương thống nhất đất nước
với chế độ CS Hà Nội trong ḥa b́nh; hay, chính v́ tinh thần quốc gia
của hai ông Diệm - Nhu, phải bắt tay ngầm với Hà Nội làm cho chính phủ
Hoa Kỳ trả đũa t́m cách lật đổ; hay v́ hai ông đă chống lại mưu toan đổ
quân Mỹ vào VN, leo thang chiến tranh, là đi ngược lại với chính sách
ngăn chận "làn sóng đỏ" theo thuyết Domino, không c̣n đứng vững!
Về phía chính quyền Diệm
- Nhu, sách lược tiêu diệt Phật giáo nằm trong kế hoạch toàn diện, lâu
dài, nên sự đàn áp không xảy ra trước th́ xảy ra sau, một khi điều kiện
và hoàn cảnh để đàn áp đă được hội đủ. Như vậy, sự bột phát đấu tranh
của Phật giáo dưới sự lănh đạo của những nhà sư đă lăn lộn, nghiệm trải
với dân tộc để bảo vệ cho một tôn giáo dân tộc là một hành động có chính
nghĩa, không thể không xảy ra.
Trong bối cảnh lịch sử
vào giai đoạn đó, chế độ Cộng sản Hà Nội, chế độ Đệ nhất Cộng ḥa là hai
chủ thể chính trị; chính phủ và chính sách của Hoa Kỳ chỉ là "khách thể".
Chiều dài lịch sử dân tộc có thể chối bỏ khách thể ở một giai đoạn lịch
sử nào đó, nhưng sinh mệnh dân tộc phải được quyết định từ các chủ thể
lịch sử để tồn tại.
Đứng về phía chủ thể
chính trị của chế độ Đệ nhất Cộng ḥa, qua nhiều dữ kiện lịch sử chúng
ta đă rơ - v́ ô. Ngô Đ́nh Nhu là một "bộ óc" của chế độ cho nên ư chí
tiêu diệt Phật giáo của ông, theo một hệ luận lịch sử, là không thể bác
bỏ. Tại sao?
II. Bản chất chính trị
của một chế độ cai trị
Có nhiều người viết sử đă
gọi chế độ Đệ nhất Cộng ḥa (ĐNCH) là "Tứ trụ triều đ́nh". Cụm từ này có
thể đúng do xuất phát từ âm hưởng của sử học Tàu, qua chiều dài của các
chế độ phong kiến Đông phương. "Tứ trụ triều đ́nh" của ĐNCH để chỉ bốn
nhân vật trong ṿng thân tộc, gia đ́nh, cai trị một nước. H́nh thức cai
trị này không riêng ǵ ở xă hội Phương Đông, mà c̣n là hiện tượng phổ
biến trong lịch sử các chế độ nô lệ, phong kiến, quư tộc Tây phương.
Trong chế độ khai sinh
nền cộng ḥa ở Miền Nam, nhân vật Ngô Đ́nh Cẩn (cố vấn chỉ đạo Miền
Trung) là một nhân vật đă tạo ra nhiều tai tiếng, có khi ở mức độ bỉ ổi,
xấu xa... Điều đó đă có nhiều sử sách, hồi kư, b́nh luận nhắc đến nhiều,
hơn nữa ông là một nhân vật phụ thuộc, nên tôi sẽ không đề cập ở đây.
Trong ba nhân vật c̣n lại,
tôi sẽ đề cập những nét chính, đặc trưng về hai ôô. Ngô Đ́nh Diệm và Ngô
Đ́nh Thục; riêng ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, tôi sẽ mở rộng vấn đề hơn, v́
là một nhân vật then chốt.
1. "Quốc lăo" Ngô Đ́nh
Thục:
"Quốc lăo" là danh xưng
mà cố tác giả Vương Hồng Sển trong hồi kư "Hơn nửa đời hư", (Văn
Nghệ xb. 1995, tr. 484 - 488) đă dành cho cố tổng giám mục Ngô Đ́nh Thục
(TGM NĐT). Vương Hồng Sển đă kể lại vài giai thoại khi được diện kiến
TGM NĐT. Đó là h́nh ảnh của của một tu sĩ Thiên Chúa giáo tuổi sắp đến
thất thập nhưng trông c̣n trẻ, mặt mũi phương phi hồng hào, sức sống c̣n
dồi dào, bệ vệ uy nghiêm, hay nói cách khác, ông là biểu tượng cho sự
tham vọng và đam mê quyền lực. H́nh ảnh của ông làm cho ta liên tưởng
tới nhân vật tu sĩ Chính Thống giáo (Orthodox) Rasputin trong chế độ Sa-hoàng
(Tsar) của nước Nga vào thế kỷ 19.
Thiên Chúa giáo La Mă là
tôn giáo xây dựng trên quyền lực tinh thần bằng hệ thống tập quyền trung
ương; trung tâm quyền lực đặt tại Rôma, cai trị các hệ thống quyền lực
tinh thần tập quyền thu nhỏ (đại biểu là Hội đồng Giám mục) trên các
quốc gia khắp toàn cầu. HĐGM toàn quốc có thể quan niệm như một cơ cấu
tổ chức hành chánh, kinh tế (qua sự đóng góp, tiếp sức hoặc đại diện
kinh tài trong các nước tư bản chủ nghĩa), chính trị (là tổ chức thống
nhất tinh thần, nhận sự chỉ đạo, giáo huấn tinh thần từ Vatican!).
Nhưng hệ thống tập quyền
này chỉ có thể đứng vững được không phải nhờ vào chất keo niềm tin của
giáo dân hoàn vũ trong các quốc gia Thiên Chúa giáo, mà nhờ vào sức mạnh
vật chất tiền bạc. Do đó, sự đầu tư, kinh tài đen (được che đậy) trong
các quốc gia công nghiệp phát triển là yếu tố sinh tử của Vatican.
Một vị hồng y hay tổng
giám mục đứng đầu Hội đồng Giám mục ở các quốc gia, đối với hệ thống tập
quyền Vatican, có thể coi như một trong những vị quan đại thần then chốt
của các triều đ́nh phong kiến. V́ vậy, đó là mục tiêu tham vọng của TGM
Ngô Đ́nh Thục, đồng thời là mấu chốt đưa tới sự ganh tị, tranh chấp ngấm
ngầm có khi công khai với ông Lê Hữu Từ, giám mục gốc Bùi Chu - Phát
Diệm (mặc dù quê hương của GM Lê Hữu Từ là Quảng Trị). Yếu tố tranh chấp
này đă làm yếu đi sự ủng hộ, trung thành tuyệt đối của thành phần di cư
Công giáo (1954). Ông TGM NĐT và các người em đang nắm quyền lực chế độ
của ông đă ư thức được điều này. Trong buổi đầu thành lập chế độ đă âm
ỉ, manh nha thế phân ly tinh thần, nhưng khi gia đ́nh nhà Ngô đă nắm
được sự cai trị toàn diện, yếu tố phân ly ấy đă bị họ coi nhẹ; nhưng sự
phân ly ấy vẫn tiềm tàng và chúng ta có thể hiểu tại sao trong những
giây phút sinh tử của chế độ, không có ai v́ "yêu Chúa, yêu Thầy, yêu
đại ân nhân" nhắm mắt liều ḿnh cứu giá.
*
* *
Trong cuộc phỏng vấn "bỏ
túi" nói trên, tôi có hỏi chú ĐHN cho biết những cảm tưởng chân thật của
ông về bốn nhân vật: ô. Cẩn, ô. Thục, ô. Diệm, ô. Nhu như thế nào, ông
nói: Khi đang phục vụ trong ngành cảnh sát "mật", ông thường phải gặp
mặt để tŕnh báo trực tiếp với ông Cẩn, có khi gần như hàng ngày. Có lần
chú ĐHN bắt được 10 xe chở gỗ lậu (loại gỗ nhà nước cấm khai thác), chú
ĐHN đem tŕnh cho ông Cẩn giải quyết. Thường những xe chở gỗ lậu ấy lại
do tay chân, đàn em của ông Cẩn làm ăn, kinh tài, ông t́m cách che chở
nên thoát nạn; nhưng có những trường hợp quá lộ liễu, ông Cẩn đành phải
chấp nhận để cho nhân viên cảnh sát thuế vụ thi hành phận sự. Về ông
Diệm, chú kể có lần tổng thống công du qua Lào (lúc đó chú ĐHN đang làm
tùy viên quân sự cho Ṭa Đại sứ), chú ĐHN ghi nhận: ông là con người
thẳng thắn, không thích nịnh bợ và có đầu óc "quốc gia" thật sự; trái
lại ông Nhu rất có đầu óc chính trị. Riêng ông Thục là người chỉ muốn
dựa vào chính phủ để ôm chặt tôn giáo của ḿnh cho bằng được. Ông kể một
giai thoại rất đáng ghi nhớ về TGM Thục. Một hôm ông Thục công du lên
Lào, gặp chú ĐHN tại văn pḥng Ṭa Đại sứ. TGM Thục hỏi chú: "Theo anh,
phải cần mấy tiểu đoàn mới đánh chiếm được nước Lào?". Chú ĐHN trả lời:
"Thưa cha, con đă giải ngũ và biệt phái làm hành chánh đă lâu, nên không
c̣n biết về quân sự nữa". TGM đưa mắt nh́n chú ĐHN một lát rồi nói: "Có
chi mà không biết. Lào là dân 'mọi rợ', chỉ cần một tiểu đoàn là chiếm
trọn cả nước chơ chi !".
Giai thoại này có thể
minh chứng thêm về cách gọi TGM NĐT là "Quốc lăo" của tác giả Vương Hồng
Sển không hẳn là châm biến. Nhưng, thay v́ nói "Quốc lăo", gọi ông TGM
là "Quốc phụ" cũng đúng nghĩa.
2. Đạo đức Ngô Đ́nh Diệm:
Cách nay 15 năm, có lần
tôi ghé thăm người vợ của tôi (hiện tại), lúc ấy chúng tôi chưa sống
chung với nhau. Gia đ́nh bà là người Công giáo gốc Bùi Chu - Phát Diệm.
Khi bước vào bên trong, ngay góc để bàn ăn rộng, cách ngăn nhà bếp và
pḥng khách, tôi giật ḿnh đứng khựng lại trong vài giây. Một cảnh tượng
kỳ dị hiện ra: Ông cụ thân sinh của bà ta đang nằm lăn qua lăn lại trên
tấm thảm, hai tay ôm ngực, miệng lầm bầm đọc ǵ đó, đôi mắt dán chặt lên
tấm h́nh Jésus có cḥm râu quai nón tỉa khéo, mượt mà treo trên tường,
thỉnh thoảng ông lấy đầu đánh rầm rầm vào tường. Tôi hoảng hốt, quay
người bước ra nói nhỏ với bà: "Vào coi xem, h́nh như ông già điên rồi,
ông lấy đầu đập vào tường!". Nghe vậy, bà ta cũng hoảng hồn chạy vào xem,
và tôi nghe bà hỏi ông ta ǵ đó. Lát sau trở ra, bà nói với tôi: "Không
sao đâu, ông ta đang nói chuyện với Chúa đó". Tôi thở dài, th́ ra vậy.
Hành động tự hành hạ thân
xác ḿnh trước Chúa Jésus (trong trí tưởng tượng) hoặc qua tấm h́nh treo
tường, không khác nhau ǵ mấy với hành động tự đấm ngực và la lên: "Lỗi
tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng" của hầu hết mọi tín đồ Thiên Chúa
giáo La Mă trên cơi trần này, không riêng ǵ tín đồ Việt Nam. Nhưng hành
động tự hành xác như lăn ḿnh vật vă dưới đất, đánh đầu vào tường v.v..
là hành vi mạnh mẽ hơn - biểu lộ sự ăn năn hối cải, hoặc cá thể ấy đang
ở một trạng thái tâm lư bất an nào đó; hoặc nó là một h́nh thức "xưng
tội", kêu gào thống thiết với Chúa, hay có khi đó là hành vi biểu lộ
t́nh yêu điên dại với Chúa, đă từng v́ ḿnh mà chịu khổ nạn trên cây
thập tự. Nói vắn tắt, cá thể ấy muốn bộc lộ t́nh yêu tuyệt đối bằng ư
tưởng: "Cha ơi, làm sao cho Cha hiểu thấu được tấm ḷng yêu thương kính
mến của con đối với Cha!".
Sau khi cơn xúc cảm cuồng
nhiệt đó qua đi, trở về với trạng thái b́nh thường, họ cảm thấy nhẹ nhơm,
tự thỏa ḷng! T́nh cảm cuồng si tôn giáo này, lâu ngày dồn kết lại,
trong thân tâm họ tự mang niềm tự hănh: đó là yếu tính của đạo đức Thiên
Chúa giáo. Đạo đức là thuộc tính phải yêu mến, tin kính Chúa tuyệt đối.
Theo nhận xét của tôi,
những gia đ́nh người Việt theo đạo Công giáo La Mă c̣n đứng vững được
cho tới ngày hôm nay là nhờ vào "phương tiện" tinh thần Nho giáo căn bản,
được giáo huấn trong gia đ́nh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với đạo
làm con th́ phải hiếu kính với cha mẹ. Từ hiếu kính cha mẹ bước sang
hiếu kính với Chúa. Hai thứ �hiếu kính� này đă nhập thành một. Có cái
này th́ phải có cái kia, hoặc không có cái này th́ không có cái kia. Và
khi nh́n vào h́nh ảnh cha mẹ luôn hiếu kính với Chúa, với Đức Mẹ, nên
con cháu thấy rằng hiếu kính Chúa, Đức Mẹ cũng như hiếu kính với cha mẹ
ḿnh vậy.
V́ thế ta có thể nói đạo
đức của Ngô Đ́nh Diệm là một đạo đức "đặc thù". Ông tổng thống cần mẫn
đọc kinh mỗi sáng thức dậy, mỗi tối trước khi đi ngủ; thói quen đó đă
trở thành thứ đạo đức biểu kiến mà bất cứ một công dân nào thực
sự có đời sống đạo đức gương mẫu th́ không thể làm khác. Đó là tính đạo
đức đồng dạng. Những kẻ nằm ngoài tính đồng dạng này, ông tổng thống cư
xử như một người "hàng xóm, láng giềng". Nhưng trong một trạng huống xă
hội đột biến nào đó, khi ông tổng thống được nghe nói những người "hàng
xóm, láng giềng" này chống lại ông, đi ngược lại những ư muốn của ông,
ông tổng thống sẽ nh́n họ như những "ác quỷ". Đó là cách nh́n của tổng
thống Diệm đối với phong trào Phật giáo năm 1963. Ông tổng thống có thể
không ghét các nhà sư Phật giáo đi nữa, cũng không thể nào thương được.
Khía cạnh thứ hai trong
đạo đức đặc thù của Ngô Đ́nh Diệm là tinh thần của một nhà Nho. Ông nói:
"Tôi thức khuya dậy sớm cần mẫn chăm lo việc nước hàng ngày hàng tháng",
có nghĩa là biểu hiện tinh thần "đức trị" Nho giáo. Trị dân th́ phải làm
gương cho dân theo, giáo hóa dân bằng mẫu mực của ḿnh để đưa nuớc tới
thịnh trị.
Ngoài cá tính "tín nhi
hiếu cổ" (tin và thích kinh điển, lễ nghi và tục lệ của cổ nhân) được
biểu hiện qua các bài viết của ông trong "Bulletin des Amis Vieux de
Hue", ông Diệm c̣n có tính "hiếu, đễ" đối với cha mẹ. Bản tính này theo
lời Khổng Tử trong Kinh Thi là, "Hiếu thuận a, hiếu thuận với cha mẹ;
thân ái a, thân ái với anh em". Từ tinh thần "thân ái với anh em" mà ông
Diệm lại không có vợ con nối dơi tông đường, nên ông đă dễ dàng để cho
hai vợ chồng người em cố vấn khuynh loát mọi vấn đề chính trị.
Có nhiều nhà viết sử ở
hải ngoại cho rằng "rất nhiều bằng chứng khẳng định ông Diệm muốn trở
thành một thứ
Constantine của Nam Việt
Nam" (xem "Ngàn
năm soi mặt", Nguyên Vũ, VH xb. 2002, tr.117). "Nhiều bằng chứng" đó
là bằng chứng ǵ không thấy ông nêu ra. Dù sao đó là nhận xét hời hợt
của những người viết "biên niên sử" theo lối ghi chép, thiếu chiều sâu
khách quan để nh́n vấn đề toàn diện về con người, văn hóa, tôn giáo v.v...
Nhận xét ấy c̣n đi ngược với tâm lư chính trị nữa. Constantine vốn có
bản chất là người mánh lới, thủ đoạn chính trị biết mượn "tín ngưỡng"
của dân bị trị nô lệ; dù ông chẳng tin ǵ Chúa, tin ǵ cái đạo "mê tín
thờ anh Do Thái" ấy. Tín ngưỡng của Constantine là ông Thần Mặt Trời,
luôn chiến thắng. Nhưng phần lớn dân bị trị của ông tin theo cái đạo "chui
rúc" này, cho nên cách hay nhất để trị nguời là biến niềm tin ấy trở
thành một "quốc giáo". Xét trên phương diện cai trị, Constantine là
người chính trị thực tiễn; trong khi ông Diệm tin đạo Thiên Chúa một
cách "thành thật", ngay thẳng! Nếu ông biết áp dụng thủ đoạn chính trị
của Constantine, hẳn ông đă có ư thức chính trị về niềm tin đa số của
người dân miền Nam là ai, và chế độ đă không kết thúc bi thảm như đă
thấy.
Nói tóm lại, đạo đức đặc
thù của Ngô Đ́nh Diệm là một thứ đạo đức "nguy hiểm", v́ thiếu tinh thần
"kiêm ái" (là chiều sâu của đạo Nho) và tinh thần từ bi của Phật; để
thật sự biết yêu thương mọi người như chính ḿnh, thương hết thảy chúng
sinh mà làm lợi lẫn cho nhau.
3. Ngô Đ́nh Nhu và chủ
thuyết nhân vị:
Cho đến nay, tất cả các
nhà viết sử Việt về chế độ Ngô Đ́nh Diệm đều đồng nhất một điểm: "bộ óc"
của chế độ Đệ nhất Cộng ḥa là ông Ngô Đ́nh Nhu. Người hiểu rơ điều này
hơn ai hết chính là bà vợ ông.
Trong thời gian đi "giải
độc" ở Mỹ, khi được báo chí hỏi về "áp lực" của Mỹ muốn ông Nhu phải rời
bỏ vai tṛ "cố vấn" cho Tổng thống Diệm, bà đă trả lời:
"Không có chồng tôi, tổng
thống không có thể làm ǵ được cả... Tôi không nghĩ việc cai trị, lănh
đạo, quản trị đất nước là chuyện dễ dàng cho ông ấy. Đó là lư do tại sao
khi ông ta bị đ̣i hỏi... phải đẩy chồng tôi đi xa, tổng thống đă nói ...
đó là đ̣i hỏi cực kỳ ngu ngốc, bởi v́ ông tổng thống biết rơ rằng, chồng
tôi có thể điều hành đất nước không cần tổng thống, nhưng ông tổng thống
không thể làm được việc nếu không có chồng tôi"
[i]
.
Bản chất cai trị của ông
Ngô Đ́nh Nhu được dựa trên hai yếu tố: chủ thuyết nhân vị cộng với chính
trị thực tiễn qua lưỡng-ác-tính "ferocita" (vừa là sư tử / lion
vừa là con chó sói / fox).
Mấy năm trước đây, nhờ
vào phương tiện internet, tôi có ṭ ṃ t́m hiểu xem ông Ngô Đ́nh Nhu đă
được huấn luyện những ǵ ở trường Ecole des Chartes. Thập niên 1930 -
40, có lẽ là thời kỳ ông theo học ở đây. Đó là chương tŕnh học "nặng kư"
nhằm cung cấp những chuyên gia không chỉ ở lănh vực quản thủ văn khố
quốc gia; ở phương diện thực hành, những người tốt nghiệp c̣n có khả
năng trở thành những nhà nghiên cứu cao cấp, lư thuyết gia chính trị,
văn hóa (Tây phương), và hơn nữa c̣n thích hợp cho vai tṛ quản trị một
cơ quan mật vụ tầm quốc gia.
Xin được nêu ra vài nét
tổng quát về chương tŕnh đào tạo như sau:
Lịch sử và truyền thống
thủ bản văn học / Các thủ bản cận và hiện đại / Thư mục học � lịch sử
ngành in sách / Hệ thống truyền thông thời cận đại / Lịch sử và phê b́nh
h́nh ảnh tài liệu / Lịch sử nghệ thuật thời trung cổ / Lịch sử nghệ
thuật thời kỳ cổ điển, hiện đại / Khảo cổ học và lịch sử kinh tế - chính
trị thời trung cổ / Lịch sử kinh tế - xă hội thời cận đại / Cấu trúc và
thư khố của các xí nghiệp (lớn) / Lịch sử thế giới hiện đại / Thuật biên
soạn lịch sử (Historio-graphie) / Thư khố - lịch sử nghệ thuật và khảo
cổ học / Phương pháp thực hành trong thống kê và đồ bản (cartographie)
v.v... Các thập niên về sau này (thế kỷ 20), trường Ecole des Chartes
c̣n mở thêm các môn học về "điện toán ứng dụng" (informatique appliqué)
nữa.
Đi sâu vào chi tiết nội
dung (currriculum), ta thấy các môn học đă cung cấp cho sinh viên các
phương pháp luận điều nghiên và lư thuyết về chính trị, văn hóa, xă hội,
tôn giáo, kinh tế, lănh đạo chính trị v.v... về nền văn minh Tây phương
từ khởi thủy đến các năm đầu thế kỷ 20 (đặc biệt là văn minh Pháp) - một
cách sâu thẳm...
Nh́n vào quá tŕnh đă
được đào tạo để chúng ta có thể hiểu tại sao ông Ngô Đ́nh Nhu đă "thân"
văn hóa Pháp rất nặng trong tư tưởng, nên muốn mang các lư thuyết nhân
vị của những nhà tư tưởng Thiên Chúa giáo như Emmanuel Mounier ra áp
dụng.
E. Mounier sinh năm 1905,
xuất thân từ ḍng dơi nông dân, nhưng cha ông là chuyên viên dược pḥng
ở Grenoble. Đồng thời với E. Mounier có các người nổi danh khác như Jean
Paul Sartre, Raymond Aron. Năm 1928, bộ ba Raymond Aron, Mounier và
Sartre trở thành những giáo sư và những nhà nghiên cứu thượng hạng ở
Pháp.
Năm 1932, Mounier và nhóm
bạn hữu cho ra tờ Esprit ("Tinh Thần" / Người anh kế của tôi thời trẻ
cũng đă đặt mua tờ báo này thường xuyên). Các đệ tử của chủ thuyết nhân
vị ở Châu Âu thời đó có thể kể như: Jacques Maritain, Nicolas Berdyaev,
và tu sĩ ḍng Tên Jean Danielon, về sau này trở thành Hồng y. Khi chủ
thuyết nhân vị ảnh hưởng sang Mỹ, chủ thuyết nhân vị đă biến thành những
tổ chức như Phong trào Công nhân Xă hội, hay những hoạt động từ thiện xă
hội như của bà Dorothy Day v.v...
Ở Âu châu, chủ thuyết
nhân vị ra đời là để đáp ứng cho những khủng hoảng sâu xa về văn hóa, xă
hội từ đầu thập niên 1930. Trong "Tuyên ngôn Nhân vị", mục tiêu của họ
được đưa ra là: "Kiên tŕ, hợp tác để tái tạo thời kỳ Phục hưng sau bốn
thế kỷ sai lầm" ("Patiently, cooperatively remake the Renaissance after
four centuries of error", The Personalist Manifesto, trang 10).
Trên b́nh diện toàn cầu,
mục tiêu trên được diễn giải rộng hơn:
"Trái với những ǵ đă xảy
ra cho những nhà cải cách vụn vặt, chương tŕnh của chúng ta phải được
cắt tỉa trong mô thức với kích thước rộng. Về mặt lịch sử, khủng hoảng
đè nặng lên chúng ta lớn hơn là khủng hoảng chính trị đơn thuần, kể cả
những khủng hoảng kinh tế nặng nề. Chúng ta đang là chứng nhân của sự ly
tán toàn diện nền văn minh, thứ khủng hoảng với tên gọi của nó, sản sinh
từ sự chấm dứt thời trung cổ, lại được củng cố cùng lúc với sự đe dọa
bởi thời đại công nghiệp, cấu trúc tư bản, ư hệ tự do, đức lư tư sản"
("Tuyên ngôn Nhân vị", "P. Manifesto", trang 8).
Nhưng chủ thuyết nhân vị
(nếu đúng nghĩa để được gọi là chủ thuyết!) không phải là một hệ thống
triết học, mà là một phương pháp, một viễn cảnh, và là một nhu cầu cấp
thiết cho một giai đoạn lịch sử.
Xuyên qua tạp chí "Tinh
Thần" (Esprit), E. Mounier xiển dương sự tái sinh tư tưởng Thiên Chúa
giáo, là một dấu ấn lịch sử cho các thế hệ trí thức Pháp và các nhà Thần
học "giải phóng". Tạp chí "Tinh Thần" là một nổ lực đấu tranh tư tưởng
nhằm lôi kéo "linh hồn" ra khỏi bàn tay của bọn phản động để tái tạo
thời đại Phục hưng. Nhưng bọn "phản động" là ai? - Đó là tinh thần văn
hóa Mỹ, chủ nghĩa tư bản và tinh thần tự do tư sản.
Nhưng mâu thuẫn của Việt
Nam vào trong giai đoạn đó là một mâu thuẫn lịch sử: giải quyết vấn đề
dân tộc, cho nên chủ thuyết nhân vị của ông Ngô Đ́nh Nhu chỉ là một ư
niệm triết học trống rỗng, nếu như �Nhân vị� của một cá thể không dựa
vào Phúc âm, t́nh yêu Thiên Chúa; hay nói cách khác, cũng như chủ nghĩa
hiện sinh, chủ thuyết nhân vị phải "tháp cành" ("enclaved") vào chủ
nghĩa cộng sản, nếu muốn nó có giá trị thực tiễn hành động (praxis).
Trên phương diện lịch sử, ông Ngô Đ́nh Nhu hằng ngưỡng mộ và kính trọng
những người cộng sản Việt Nam (như Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp, Phạm Văn
Đồng, Tạ Quang Bửu v.v...), v́ họ là thế hệ đàn anh đi trước, và hơn nữa
đang nắm ngọn cờ lịch sử dân tộc. Do đó, để thực hiện một "thỏa hiệp"
chính trị với chế độ Hà Nội, ḥng thoát ra khỏi áp lực Mỹ, nhưng sự hậu
thuẫn của nhân dân miền Nam đă hoàn toàn bị đánh mất, chủ thuyết nhân vị
đ̣i hỏi một nhu cầu chính trị hành động thực tiễn.
Chính trị thực tiễn (realpolitik)
là chính trị thích ứng với trạng huống chính trị thực tại, theo quan
niệm của Machiavelli (tác giả "Prince" / "Quân vương"), là một thỏa hiệp
thực tiễn nhằm đạt tới mục tiêu. Muốn vậy, người lănh đạo (Quân vương)
phải là một "bực thầy" có đủ năng lực thủ đắc cái "chân lư hiệu quả"
("effective truth"): - vấn đề quan trọng không phải là câu hỏi làm thế
nào cho phải đạo, mà làm thế nào để thắng lợi. Vấn đề không phải là đạo
đức hay đồi bại, nhưng là hành động tàn nhẫn lạnh lùng tất yếu, v́ nó
đưa tới sự thành công. Cho nên, đạo lư chỉ là công cụ tạm thời trong một
thế giới đang đổi thay không dứt ("Ethics are mere provisional tools in
a constantly changing world") ("Prince", Machiavelli). Và, để có thể
hành động, người lănh đạo phải hội đủ bản năng lưỡng-tính (dual
character - theo tôi nghĩ), gọi là "Férocita": vừa là con sư tử, vừa là
con cáo già.
Phải chăng đó là nền tảng
tư tưởng và hành động của con người triết học Ngô Đ́nh Nhu? Những con
người theo chủ thuyết nhân vị chỉ khác với những người theo hiện sinh ở
chỗ - đạo lư nhân vị cần phải dựa vào nền tảng Phúc âm, Thiên Chúa;
những người hiện sinh ngược lại, thẳng thẳn phủ nhận Thượng đế, nên J.P.
Sartre đă hùng hồn tuyên bố: �Kẻ chống cộng là một con chó; tôi không
bao giờ thay đổi quan điểm này, sẽ không bao giờ� ("An
anti-Communist is a dog; I don't change my view on this, I never shall
!").
Trong niềm tự hănh của
một bộ óc triết học và chính trị, lại nhận được sự vỗ về của một người
vợ có bản lănh, dám đương đầu với t́nh thế chính trị căng thẳng nhất;
cộng với sự "bảo chứng" tinh thần của người anh cả - tổng giám mục, ông
Nhu thách thức với quyền lực Hoa Thịnh Đốn - là kẻ đă tạo dựng nên chế
độ. Điểm cao nhất thể hiện hành động chính trị lưỡng-ác-tính/ férocita
của ông Ngô Đ́nh Nhu là đêm chiến dịch Nuớc Lũ ngày 20/8 đồng loạt tấn
công các chùa trên toàn quốc, hốt gọn các nhà lănh đạo Phật giáo các
thành phần tham gia phong trào (tính-sư-tử); và hơn hai tháng sau đó là
hai kế hoặch đảo chánh giả Bravo I & Bravo II (tính-cáo-già), khi biết
chắc thế nào Mỹ hổ trợ một kế hoặch đảo chánh lật nhào chế độ của anh
ḿnh. Nhưng, chính kế hoặch Nước Lũ lại là "bản án tử h́nh" cho chính
ông và chế độ.
Thất bại của ông Ngô Đ́nh
Nhu là thất bại của triết học Tây phương - qua chủ thuyết nhân vị nhào
nặn với một chút mùi vị Thiên Chúa giáo, áp dụng trên một đất nước có
truyền thống văn hóa tam giáo đồng nguyên lâu đời như Việt Nam.
Gần cuối tháng 10/1963,
trước cảm nhận chế độ đă mất hết ḷng dân, ông Ngô Đ́nh Nhu đă tỏ lộ hết
ruột gan ḿnh cho báo giới hiểu rằng:
"Tôi là người chống cộng
từ quan điểm lư thuyết. Tôi không là người chống cộng từ quan điểm chính
trị hay nhân tính. Tôi coi những người cộng sản là người anh em, những
con chiên lạc đàn. Tôi không chủ trương một thánh chiến chống lại người
cộng sản, bởi v́ chúng tôi là một quốc gia nhỏ, chỉ muốn sống trong ḥa
b́nh"
[ii].
Những lời bộc bạch này đă
phô bày thật rơ bản chất "thâm sâu nhưng thật thà" của một đầu óc triết
học mang ḍng máu của "Quảng-B́nh-quê-hương-định-mệnh". Dù cho những
"người anh em" đi trước ở Hà Nội là những người đă cứu thoát Ngô Đ́nh
Diệm, Ngô Đ́nh Nhu - hay như chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Ông Diệm
là người yêu nuớc. Ông yêu nuớc theo cách của ông" đi nữa, ở Hà Nội,
các lănh tụ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp hẳn đă sửng sốt,
không tin nổi những ǵ đă xảy ra ở Miền Nam trong ba tháng từ 8/5 đến
21/8. Không một ai c̣n có thể nghĩ tới một giải pháp thỏa hiệp chính trị
với những người lănh đạo, một chế độ đă mất hết ḷng dân bao giờ! Hơn
nữa, "cây gậy" ở đường Thống Nhất đang âm thầm chuẩn bị hành động. Giải
pháp chính trị của Ngô Đ́nh Nhu đă tự tuột khỏi tầm tay của ḿnh.
Làm thế nào để những nhà
lănh đạo ở Hà Nội có thể chấp nhận việc "người anh em" Ngô Đ́nh Nhu đă
tự ví họ như những con chiên, huống hồ là "những cao chiên lạc đàn"?
Phải nói những con chiên "cùng đàn" của ông nằm trọn vẹn trong Dinh Độc
Lập, trong Đảng Cần lao Nhân vị, trong tổ chức Thanh niên Cộng ḥa, cộng
thêm 8 phần mười trong số gần một triệu người di cư Công giáo, và ông
chính là con chiên đầu đàn (ABEL). Và những kẻ giết ông mới đúng là
những con chiên "lạc đàn" (CAIN). Nh́n thấy được điều đó, nên "nhà văn"
(bất đắc dĩ) Hoàng Nguyên Nhuận đă viết: "Về nhiều phương diện, 'Việt
Nam máu lửa quê hương tôi' (hồi kư Đỗ Mậu) có thể là một quả tạc đạn nổ
bất ngờ giữa những kẻ hoặc đă muốn đào sâu chôn chặt Ngô Đ́nh Diệm để
chôn vùi luôn tội ác của chính ḿnh như CAIN núp dưới bầu trời để chạy
tội sát nhân, hoặc những kẻ đang muốn quật mồ Ngô Đ́nh Diệm và các anh
em ông, lột da của họ thuộc làm tấm áo khoác che đậy cho những tội toa
rập ngày trước và những âm mưu hoạt đầu vô vọng trong tương lai" (Từ
chốn lưu đầy, HNN, Thanh Văn xb. 1990, trang 99).
Là một kẻ đi sau, nhưng
Hoàng Nguyên Nhuận đă vượt qua sự tinh tế của Ngô Đ́nh Nhu mất rồi!
III. Ngọn Đuốc Thích
Quảng Đức:
Với chế độ gia đ́nh trị
dựa trên quyền lực Thiên Chúa giáo, và với bộ óc triết học dẫn đạo cho
hành động chính trị của ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu, biến cố đàn áp Phật tử
đẫm máu vào đêm 8/5/63 ở Đài Phát thanh Huế là một yếu tố đương nhiên
phải xảy ra, hoặc sớm hoặc muộn hơn thôi. Chính sách Công-giáo-hóa miền
Nam VN từ vĩ tuyến 17 trở xuống (kế hoạch xa) là một thực tại chính trị,
nếu ông Ngô Đ́nh Nhu muốn đương đầu (hay thỏa hiệp) với chế độ cộng sản
ở miền Bắc; hoặc giả cơ hội thỏa hiệp chưa đến th́ sẽ thi hành một cuộc
cách mạng xă hội chủ nghĩa Thiên Chúa giáo, để chuẩn bị thời cơ. Mặt
khác cần phải cô lập để trung tính hóa (neutralizing) trước khi dùng văn
hóa và triết học để tinh thần Thiên Chúa giáo thâm nhập vào đầu óc "họ"
- thành phần mà ông Ngô Đ́nh Nhu cho rằng đa số là những người Phật tử
cà lơ phất phơ / phật tử "dỏm" ("Nomadic Buddhist"), tức là loại phật tử
không đến chùa, không quy y, không tham gia đoàn thể không thể gọi là
những người theo đạo Phật!
Do đó, đàn áp Phật giáo
chỉ là một bước đầu trong mục tiêu xa là nhằm tiêu diệt Phật giáo. Những
người lănh đạo Phật giáo ưu tú vốn đi ra từ xương thịt dân tộc nhạy cảm
trước âm mưu này hơn ai hết, nên tranh đấu bất bạo động là phương tiện
duy nhất để bảo vệ sự tồn tại của một tôn giáo dân tộc. Nói như tác giả
Hoàng Nguyên Nhuận, "Không có biến cố Phật Đản ngày
8/5/1963 th́ cũng chưa
chắc đă có vụ thảm sát ở Đài Phát thanh biến Huế đêm 8/5. Không có vụ
thảm sát ở Đài Phát thanh Huế th́ cũng chưa chắc đă có vụ tự thiêu của
Thượng Tọa Quảng Đức ngày 11/6"
("Ánh đuốc Quảng Đức", web Chuyển Luân tháng 5), chỉ là một hệ
luận thu hẹp vấn đề. Nh́n vào toàn bộ lịch sử và bản chất chính trị qua
9 năm xây dựng chế độ Đệ nhất Cộng ḥa, lẽ ra phải nói: Không có biến cố
Phật Đản ngày 8/5/1963 th́ cũng sẽ có một biến cố tương tự, có thể sẽ
đẫm máu hơn, hoặc tinh vi hơn. Phật giáo, để đối phó với sự đàn áp, tinh
thần đối kháng duy nhất để bảo vệ tôn giáo từ bi là chấp nhận sự hy sinh
thân mạng. Tự thiêu là sự hy sinh cao cả nhất của tinh thần đấu tranh
bất bạo động.
Ngày 11 tháng 6/ 63,
thuợng tọa Thích Quảng Đức mở đầu lịch sử Việt Nam bằng hành động tranh
đấu uy dũng hơn tinh thần Gandhi, nhân bản và từ bi hơn tinh thần tự sát
Nhật Bản, tự đốt lên ngọn đuốc lay động lương tâm bạo lực, những nhà cai
trị độc tài, bản chất chính trị hung ác; trong 41 ngày Phật giáo Việt
Nam đă không c̣n t́m thấy tia hy vọng nào ở cuối đường hầm trong thiện
chí thay đổi của chính quyền.
Ngọn đuốc Quảng Đức đă
lay động lương tâm nhân loại, xao xuyến trái tim của nhân dân và chính
phủ Hoa Kỳ! Hai kư giả O'Leary và Seymour đă viết: "Tại sao Mỹ lại ủng
hộ một chế độ dấn thân vào chuyện bức hại tôn giáo? Tại sao Tổng thống
Kennedy đem quân đến giúp một chế độ của một người đă đẩy dân trong các
trại tập trung?"
[iii].
Trong nuớc, ngọn đuốc
Quảng Đức đă làm cho ḷng dân bừng dậy và đoàn kết thành một khối, kể cả
10% phật tử trong tổng số 800 ngàn dân di cư 54, cùng ủng hộ cuộc tranh
đấu bạo lực kỳ thị tôn giáo, dù trong tâm tư vẫn cố giữ thế đứng chính
trị "di cư v́ chống cộng". Hai khối Công giáo phân ly âm thầm Bùi Chu -
Phát Diệm và Công giáo ủng hộ triệt để TGM NĐT rạn nứt thêm, nên ánh mắt
của người Công giáo di cư nh́n lên tổng thống "đại ân nhân" đầy phân vân
và e ngại!
Đặc biệt, ánh đuốc Thích
Quảng Đức đă lay động trái tim của tổng thống Diệm, khi trưa ngày 11/6
ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ vào dinh gặp
tổng thống, "ông Diệm đă nói những lời chí t́nh": "Toàn dân bầu tôi làm
tổng thống. Tôi đâu có phải chỉ là tổng thống của các người Công giáo;
lúc c̣n nhỏ, mẹ tôi vẫn dẫn tôi đến chùa Diệu Đế...". Ngoại trưởng Vũ
Văn Mẫu đă nh́n thấy "Ngọn lửa Bồ Tát quả có hiệu lực soi sáng tâm hồn
tổng thống Ngô Đ́nh Diệm" ("Sáu tháng Pháp nạn", VVM, GĐ xb.,
trang 277).
Nhưng chỉ có trái tim của
hai vợ chồng ông cố vấn là không hề lay chuyển?
Từ ánh đuốc của Ngài
Quảng Đức đă thắp sáng thêm sự hy sinh của tám vị sư khác mong chuyển
hóa lương tâm của chế độ (1963), và nối tiếp những "ánh đuốc" đấu tranh
bảo vệ cho ḥa b́nh của đất nước vào những năm kế tiếp sau cái chết của
hai anh em tổng thống, nối tiếp là các chế độ độc tài quân phiệt, nhất
là trong năm 1967 có đến 14 phật tử khác đă hy sinh. "Ánh đuốc" Quảng
Đức cũng đă soi sáng lương tâm của một tín đồ Tin Lành là anh Norman
Morrison, tự thiêu ngày 2/11/1965 để chống lại cuộc chiến tranh phi
nghĩa ở VN. Hai năm sau, nữ phật tử Nhất Chi Mai cũng tự nguyện thắp
lên ngọn đuốc từ bi để chống lại tập đoàn quân phiệt hiếu chiến và tàn
bạo Thiệu - Kỳ. Trước khi hy sinh, Nhất Chi Mai đă ca ngợi sự hy sinh
của anh Norman bằng bài thơ:
Tại sao một người Mỹ đă
tự thiêu ḿnh?
Tại sao cả thế giới chống
chiến tranh?
Nhưng tại sao người Việt
Nam vẫn c̣n im lặng
Không dám cất tiếng gọi
cho ḥa b́nh?
(Why
did an American self-immolate?
Why did the whole world
protest against the war?
Why have the Vietnamese
been silenced
And would not dare to
call for peace?)
(The Vietnamese
Engaged Buddhism - The Struggle Movement of 1963-66, Quán Như, nhà
xb. Văn Nghệ, 2002, page 268)
Qua những ngọn đuốc tâm
linh từ Quảng Đức thắp sáng mười phương, giờ đây có thể khẳng định mà
không sợ đại ngôn nữa: tự thiêu để chống lại cường quyền, bạo lực, thắp
sáng niềm ước vọng ḥa b́nh nhân loại đă trở thành một "cá tính quốc
gia" (national character) của người Việt Nam!
IV. Vài ḍng về "Rồng Phu
nhân":
Sau này, có nhiều người
thân cận, hay từng được hưởng ơn mưa móc của chế độ đă kết án bà Nhu đă
làm sụp đổ chế độ là lời kết án đầy cảm tính. Bản chất của chế độ, con
người chính trị của ông Ngô Đ́nh Nhu không đơn giản để cho vợ được tự do
làm hư chuyện. Bà Trần Lệ Xuân có thể hiểu một cách đơn giản như thế
này: Bà xuất thân từ gia đ́nh quyền quư, sống trên nhung lụa và được
chiều chuộng quá mức của một gia đ́nh Phật giáo. Thương yêu con nhưng
không quá nghiêm khắc trong vấn đề giáo huấn con cái. Bà là phụ nữ xuất
thân từ trường Tây, dù ở cấp nào đi nữa cũng chỉ biết văn hóa văn minh
Tây mà thôi. Khi lấy người chồng đang ở vai tṛ nắm giữ quyền lực, bà là
một mẫu người phụ nữ điển h́nh của các quốc gia chậm tiến: thương chồng,
săn sóc chồng (như có giai thoại đă được nghe bà đă săn sóc sức khỏe ông
Nhu bằng sự kiểm sóat từng điếu thuốc lá ông hút v.v...), xây dựng cho
sự nghiệp của chồng đi lên, đó là tinh thần �noblesse oblige� [nghĩa vụ
quư tộc - bt.]. Cho nên, bà đâu cần biết tới "Ḷng em có đất có trời,
có câu nhân nghĩa có lới hiếu trung"!
Việc hôn nhân của một
người đàn ông trong đời, lắm khi c̣n là v́ duyên nghiệp, phúc đức của
mỗi người. Giá như bà Nhu thời tuổi trẻ từng có dịp đến chùa, từng biết
thắp nhang quỳ lạy Phật, đọc được một vài cuốn sách Phật, th́ bà đâu nỡ
ḷng nào gọi cuộc tự thiêu của một vị Sư là "nướng thịt"! Ngược lại, nếu
bà kết hôn với một người chồng Phật giáo, cạn hay sâu, thế nào cũng ẩn
hiện một tấm ḷng từ ái th́ sẽ dung ḥa được cá tính nam nhi của bà Nhu.
Sự kết hợp hôn phối của bà với ô. Nhu tựa như Rồng gặp Nước, ở trong một
hoàn cảnh có người chồng ở địa vị cao nhất nước, nên sinh cớ sự...
Trong thời gian đi giải
độc ở Mỹ, Bà đă bộc bạch với kư giả "chồng tôi rất không vui với... một
phía th́ ông anh, phía kia th́ vợ. Ông cho rằng cả hai như những "đứa
bé" trong rừng. Ông nói với anh ḿnh rằng, "Anh nên làm tu sĩ", và nói
với tôi, "C̣n bà th́ nên câm miệng lại... không được tuyên bố bất cứ
điều ǵ" [iv].
Thế mà bà vẫn cứ tuyên bố
vung vít, phát biểu những câu mất hết cả khôn ngoan chính trị; điều đó
chứng tỏ không những ông Nhu chiều chuộng vợ, mà trong chiều sau kín
đáo, ông c̣n "tâm phục" vợ nữa.
Kết luận ǵ về người phụ
nữ độc đáo có một không hai này: độc đáo từ nghĩa "tệ" nhất lẫn "cao"
nhất. Đặt ra ngoài thảm nạn Phật giáo do chế độ tạo ra, lần đầu tiên sau
mười thế kỷ dựng lại nước, bà là người phụ nữ Việt Nam có được cơ hội
trong ṿng một tháng "đại náo" Hoa Kỳ - một siêu cường quốc thế giới lại
là kể hỗ trợ kề vai sát cánh với chế độ -, từ phía Đông (New York) sang
tới phía Tây (Los Angeles) nước Mỹ, tuyên bố những lời bạo tợn, đanh
thép không chút ngượng ngùng, sợ hăi. Đó là lời lẽ của những lănh tụ nam
nhi độc tài, phát-xít. Có chăng các bà mệnh phụ phu nhân ở Ṭa Bạch Ốc
khi xem truyền h́nh thấy những cử chỉ, hành vi, lời nói của bà vừa nổi
da gà, vừa thích thú !?... Tôi không muốn viết những lời biện hộ dùm cho
bà làm ǵ trong lúc này, chỉ v́ nhân cơ hội lật lại trang sử Phật giáo
năm 63, để viết cho ngay thẳng về một tâm lư có thật: Ngoại trừ một số
nữ Phật tử lớn lên trong thế hệ 63, nhớ lại bà đă tuyên bố những lời
thật thất lễ, thất đức về vụ tự thiêu của HT Thích Quảng Đức và các vị
sư sau đó, đa số các phụ nữ Việt Nam trẻ khác ở nước ngoài có dịp đọc
lịch sử Việt Nam cận đại, khi biết đến những ngày tháng bà đến Mỹ "giải
độc" cho chế độ đă công khai hoặc âm thầm ngưỡng mộ, thán phục bà; nếu
biết bỏ quên tác dụng của ngôn ngữ, chỉ nghĩ đến hành động, hành vi,
thái độ th́ chính bà đă mang lại niềm tự hào, tự hănh v́ thỏa măn được
tự ái dân tộc cho người phụ nữ Việt Nam nói chung, được thế giới biết
đến.
V. Sách, đọc một cuốn...
th́ đă sao !?
Trong tác phẩm "Hồ Chí
Minh - Ngô Đ́nh Diệm và Mặt trận Giải Phóng Miền
Nam"
(Văn Nghệ xb. 1992), tác giả Hồ Sĩ Khuê nói : - như ai khác, ông cũng
biết sợ người chỉ đọc một cuốn sách, nhưng sợ nhất là những người suy
nghĩ một chiều. Nhưng sau khi đọc hết cuốn sách của ông th́ tôi nhận
thấy: nói về giai đoạn lịch sử trước khi đất nước bị chia cắt thành hai
miền cho tới ngày thống nhất, và kéo dài hai mươi năm sai lầm sau đó,
th́ có đọc một cuốn sách như sách ông viết cũng đủ rồi. Bởi h́nh như tác
giả đă dành trọn đời ḿnh để chỉ viết "một cuốn sách", nên nói nó là tác
phẩm lịch sử cũng được mà gọi là triết lư chính trị ḥa giải dân tộc
cũng không sai. V́ lẽ ông Hồ Sĩ Khuê không muốn làm một sử gia, một lư
thuyết gia chính trị, một người viết hồi kư, nhưng ông muốn làm thuyết
khách chỉ đường cho những ai muốn hành động v́ ḷng yêu nước. Từ vai tṛ
của một người từng đóng góp từ những suy tư chính trị để xây dựng nền
móng tư tưởng dẫn đạo cho chế độ Đệ nhất Cộng ḥa, Hồ Sĩ Khuê đă tự ư
rút lui khỏi ṿng công danh bất đắc dĩ khi đă linh cảm nhận ra mầm mống
sai lầm của ông Ngô Đ́nh Nhu, và 30 năm sau ngồi vẽ lại một bức tranh
toàn diện về những mâu thuẫn chính trị của hai phía anh em thù địch
trong bối cảnh mâu thuẫn chính trị quốc tế. Thành ra c̣n có ai có đủ
thầm quyền hơn nữa khi kết luận: "Ông Diệm sụp đổ không v́ cộng sản,
không v́ Phật giáo. Mà hoàn toàn v́ chính ông" (HS Khuê, trang
396).
Và tại sao tác giả lại
vạch cái mốc: "Lịch sử phải bắt đầu từ ngày 30/4/1975"?
Sau ngày thống nhất,
trong hai mươi năm đầu với sự sai lầm chính sách toàn diện của chế độ
cộng sản, đă làm cho nhân dân Miền Nam vọng tưởng để hối tiếc chế độ Đệ
nhất Cộng ḥa của Diệm - Nhu; và mười năm sau mặc dù Việt Nam đă đổi
mới, chọn con đường kinh tế thị trường để phát triển đất nước... thế hệ
trẻ lớn lên sau chiến tranh càng lúc càng gần gũi, thân thiết với đời
sống vật chất, văn hóa Mỹ, đạo đức suy đồi, xă hội hỗn loạn, càng làm
cho người dân miền Nam nhớ lại quá khứ lại càng thêm kính trọng hai ông
Diệm - Nhu.
Hơn nữa, sau ba mươi năm
với thực tế trải nghiệm trước mắt, giờ đây, người miền Bắc với kinh
nghiệm ông Hồ làm sao không thèm "chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm" như lời ông HS
Khuê nhận xét! "Tinh thần Ngô Đ́nh Diệm" kéo dài theo chiều rộng của cả
nước. Không ngờ câu tuyên bố của bà Nhu với kư giả Mỹ sau ngày đảo
chánh, đă trở thành lời tiên tri:
"Tôi cho quư vị biết nếu như gia đ́nh
họ Ngô đă bị giết một cách man rợ, th́ hậu quả của nó sẽ chỉ mới bắt
đầu. Bắt đầu của câu chuyện" ("I
tell you that if really the Ngo family have been treacherously killed,
in that effect it will be only the beginning. The beginning of the story" -
Public Broadcasting Services, PBS.org, 29/3/05).
Nhưng "tinh thần Ngô Đ́nh
Diệm" là ǵ, nếu không hiểu nôm na là một thứ đạo đức "đặc thù", mang
"dâng cả nước Việt Nam lên Đức Mẹ, làm như Thiên Chúa là quốc giáo"?
(theo HSK, trang 395); hay tinh thần đó chính là bộ óc Ngô Đ́nh Nhu đă
được chứng thực là một thất bại trên một nửa nước?
Dù sao, với hiện trạng
trên đất nước (phát triển kinh tế giả tạo, xă hội suy đồi), nh́n lại
từng giai đoạn bước ngoặc lịch sử của quá khứ (theo sự phân chia của nhà
nghiên cứu sử học Trần Xuân An, web GĐ tháng 5/05:
1858-1885,
1885-1930, 1930-1945, 1954-1975, 1975-1989), chặng đường lịch sử thứ năm
(1954-1975) của chế độ hai anh em Diệm - Nhu có tội mà cũng có công.
Phải có sự công bằng lịch sử để ghi nhận cái công đó của hai ông.
Từ đó, hành tŕnh giải
hoặc lịch sử, giải hoặc tôn giáo của nhóm Giao Điểm là nhắm tới mục tiêu
hóa giải hận thù chính trị, tôn giáo, kết tụ nhân tâm đoàn kết dân tộc
để cùng nhau đóng góp tùy sức lực, tùy vị trí của mỗi người đưa đất nước
đi lên.
-- Về lịch sử:
Đảng Cộng sản VN, kẻ nắm được nằm ngọn cờ giải phóng dân tộc, đưa tới
thắng lợi hoàn toàn năm 1975, chấm dứt cuộc trường kỳ kháng chiến hơn
một trăm năm, kể từ ngày kinh đô Huế thất thủ.
Con đường cộng sản của
Nguyễn Ái Quốc là một định mệnh lịch sử, xuất phát từ những "giọt nước
mắt" yêu nước khi t́m đến với tư tưởng Lê-nin. Dù với định mệnh lịch sử
đưa đẩy ông phải đi làm "bồi" cho Pháp đi nữa, rút cuộc cũng đi tới con
đường cứu nước. Cứu nước một cách khác. Sau này, những người thừa kế
tinh thần Hồ Chí Minh có đi theo con đường quốc tế vô sản đi nữa cũng
chỉ v́ những "gọng kềm lịch sử", quyền lợi đất nước đối với họ vẫn là
trên hết. Là những kẻ đă từng đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh Tàu... th́ dưới
sự lănh đạo của Đảng Cộng sản VN, họ có thể đánh bất cứ một quốc gia nào
trên thế giới này, nếu các quốc gia đó chủ tâm xâm lăng, muốn biến VN
trở thành nước nô lệ! Do đó, không có một thế lực chính trị nào có quyền
phủ nhận công lao xương máu của Đảng Cộng sản VN.
-- Nhưng do hậu quả của
chiến tranh Bắc - Nam kéo dài từ những mâu thuẫn lịch sử
đă bị đánh mất một chặng đường ḥa giải đúng lư ra, tốt đẹp nhất, đă bị
tuột khỏi tầm tay của hai phía, xương máu anh em đổ ra càng nhiều, càng
làm cho hận thù thêm chồng chất. Do đó, để hóa giải mâu thuẫn chính trị
quá khứ, phù hợp với ước vọng mới của thế hệ trẻ lớn lên từ sau chiến
tranh, Đảng Cộng sản VN phải chấp nhận thế đứng chính trị của thành phần
dân tộc (có lẽ chiếm đại đa số).
-- Kinh tế thị trường và
phát triển:
Kinh tế thị trường là xu thế phát triển của thời đại toàn cầu hóa. Một
quốc gia không thể phát triển kinh tế mà đứng một ḿnh, một cơi, hay chỉ
nhắm thu hẹp trong khu vực địa lư chính trị thu hẹp. Kinh tế thị trường
tạo điều kiện phát huy tinh thần sáng tạo, thi đua cạnh tranh chính
đáng, gia tăng năng lực sản xuất, tŕnh độ kỹ năng của công nhân và tiến
bộ khoa học kỹ thuật của chuyên viên � là ưu tiên hàng đầu để thi triển
với nền kinh tế quốc tế.
Giai cấp "công nhân mới"
không c̣n là giai cấp vô sản của thế kỷ 19, đầu 20 như Mác, Lê-nin đă
nh́n thấy. Giai cấp công nhân mới không c̣n bị bóc lột dễ dàng, đời sống
bản thân và gia đ́nh thoải mái hơn, có tŕnh độ kỹ năng thời đại, có
hoàn cảnh tạo được đời sống vật chất tương đối hoàn hảo. Một gia đ́nh
công nhân c̣ khả năng mua sắm Tivi, tủ lạnh, xe gắn máy... hoàn toàn
không có mặc cảm nào với chủ nhân tư bản, hay các thành phần quản trị
cấp cao... lái xe hơi, ở nhà lầu. Thế nhưng, giai cấp công nhân mới của
nền kinh tế thị trường nói riêng, nền kinh tế quốc gia nói chung c̣n
phải đương đầu với ḷng tham, bất công, bóc lột... công nhân dưới h́nh
thức khác, như: luật lệ công ti bất công, tiền lương, hưu bổng, lao
động, hay những quyền lợi khác nói chung không được đối xử xứng đáng,
th́ Đảng Cộng sản VN - kẻ đại diện chính thức cho giai cấp công nhân mới
phải đấu tranh, bảo vệ cho giai cấp họ, dưới các h́nh thức liên kết với
các nghiệp đoàn công nhân quốc tế, của các công ti đa-quốc-gia, các cơ
quan tổ chức luật pháp quốc tế... để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công
nhân dân tộc. Đó là ư nghĩa chuyển hóa của tinh thần "cách mạng thường
trực" ('permanent revolution') vậy.
-- Vấn đề dân chủ:
Trong giai đoạn đă có sự ḥa đồng dân tộc, nhất thống nhân tâm, sự ổn
định chính trị là điều kiện thiết yếu để xây dựng đất nước, do đó chúng
ta không thể đ̣i hỏi phải có một xă hội tự do phóng khoáng, dân chủ
thiếu ư thức như các quốc gia Âu Mỹ. Hiệu quả và kết quả của kinh tế thị
trường là thước đo để từng bước tiến tới sự mở rộng dân chủ và dân chủ
thực sự. Đó là yếu tố vừa khách quan vừa chủ quan (trong đó yếu tố con
người tự giác là quan trọng nhất); cho nên chiều dài đi tới dân chủ với
thời gian nhanh hoặc chậm là tùy thuộc vào hai yếu tố này.
-- Về tôn giáo, tín
ngưỡng: Dân
tộc tính của người Việt Nam là ḷng bao dung. Không ai có thể khinh thị,
chế nhạo, coi thường hay chống lại niềm tin của kẻ khác, nếu như tôn
giáo, tín ngưỡng này không chống lại quyền lợi của dân tộc � hay liên
kết với ngoại bang để mưu cầu chính trị, khuynh loát quốc gia. Giải hoặc
tôn giáo là nhằm nêu lên sự thật về một tôn giáo có tội với dân tộc,
đường xa là trang bị cho dân trí một tinh thần nhân bản "thế tục" vượt
lên trên các sức cản (inertia) của những tôn giáo hệ thống, mù quáng.
Thế tục là mục tiêu của cuộc sống hiện tại, trên thế gian này, chứ không
phải là viễn cảnh của thiên đàng, địa ngục. Hạnh phúc hay khổ đau là vấn
đề của thực tại. Tinh thần nhân bản là ḷng nhân, ḷng từ bi khi đối đăi
với tha nhân, là ḷng biết cảm nhận t́nh thương yêu, hy sinh chịu "khổ
nạn" của kẻ khác.
Ông bà tổ tiên chúng ta
từng thờ cúng các bậc tiền nhân, có công dựng nước, giữ nước, tin tưởng
các thần linh đă hổ trợ bảo bọc cho xóm làng, cho mưa thuận gió ḥa
trong sản xuất, che chở cho các tai biến thiên tai; dân ta thờ các anh
hùng liệt sĩ, hay các vong hồn uổng tử đă chết trong chiến tranh...
không lư ǵ chúng ta lại ngăn cấm các tín đồ tin đạo Thiên Chúa đi lễ
nhà thờ, người Ḥa Hảo thờ Huỳnh Phú Sổ, người Cao Đài thờ Thiên Nhăn
một mắt, người dân thiểu số đạo Hồi thờ Mahommed! Nhưng, để bảo toàn an
ninh, quyền lợi văn hóa chính trị quốc gia, chúng ta phải phân biệt giữa
hành đạo và truyền đạo. Hành đạo là sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng đă có
nề nếp trong quốc gia; c̣n truyền đạo là hành động xâm nhập mới vuợt qua
biên giới quốc gia, nhằm liên kết, tổ chức phối hợp với các tôn giáo nội
địa trong mục tiêu "ngoài tôn giáo", hoặc nhằm tạo sự kích động, xáo
trộn các sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng đang sống trong ḥa ái, yên
lành. Cho nên, nhà nước có nhiệm vụ phải kiểm soát, điều hướng các hoạt
động truyền đạo từ nước ngoài.
Tóm lại, những ngày lễ
hội của các tôn giáo lớn c̣n là dịp để cho dân chúng thoải mái tâm hồn,
nghỉ ngơi, trầm lắng tâm linh để nhớ về cội nguồn, như:
ngày Noel là dịp để cho
bà con cô bác không phân biệt tôn giáo ăn nhậu một bửa �réveillion� thỏa
thích, cho những thanh niên thiếu nữ có cơ hội tổ chức �boom�, �bal de
famille� v.v? nhảy nhót, xả hơi vui thú sau một năm dài lao động?;
Ngày Phật
Đản để cho đa số dân chúng phật tử có cơ hội trầm tư, tôn kính ḷng từ
bi của Đức Phật, nhắc nhở tinh thần tự thắp đuốc lên mà đi của mỗi cá
nhân, ngày lễ Vu Lan để cả nước nhớ tới ḷng hiếu để với người Mẹ Việt
Nam, hướng về tổ tiên anh liệt, xá tội vong nhân, các oan hồn uổng tử đă
chết oan khiên v́ chiến tranh, loạn lạc...
Hậu từ:
Đúng ra tôi phân vân
không muốn viết bài này, khi nhận được lời kêu gọi đóng góp tham luận
nhân ngày Hội thảo về "Cuộc tự thiêu của Ngài Quảng Đức" của thầy Mạnh
Thát thuộc Viện Nghiên cứu Phật học ở Sài G̣n, v́ nghĩ rằng sẽ có nhiều
anh chị Phật tử khác xứng đáng hơn để viết và viết hay hơn tôi nhiều.
Nhưng có vài tác động khách quan bên ngoài đưa đẩy đến, tôi đành miễn
cưỡng viết thôi. Một mặt, để giải tỏa những lời nhận xét con người của
tôi về chế độ Ngô Đ́nh Diệm, khởi phát từ bài viết "Vài suy nghĩ
chung quanh dư luận về cuốn hồi kư của tác giả Đỗ Mậu" cách nay trên
hai chục năm rồi, và lai rai nhiều bài viết sau đó dưới các bút hiệu
khác. Sự mâu thuẫn trong tôi chỉ v́ mỗi khi nhắc lại cái chết của hai
ông Diệm - Nhu, hay t́nh cờ nh́n thấy các bức h́nh nằm chết của hai ông
ấy, tôi chịu không nổi: vừa thương vừa hận, vừa uất ức vừa suy nghĩ cũng
"phải" thôi! Đó là nguyên nhân mâu thuẫn nội tâm trong con người tôi,
chứ không phải là tâm lư "gian xảo" ǵ cả!
Riêng để kính tặng duyên
kỳ ngộ với bà cu Huế vào (suốt) tháng 10 năm 2000. Có những việc "người
trần mắt thịt" như tôi không hiểu được! Kính chúc Bà trường thọ
(*bt.).
Riêng, cảm ơn thầy Mạnh
Thát đă cho tôi một cơ hội để tâm hồn được an nhiên, nhẹ nhơm.
Nguyễn Văn Hóa
Tuesday, June 07, 2005
Giao Diem, updated:
8.6.2005 (tác giả có bổ túc thêm vài ư).
Chú
thích:
[i]
Madame Nhu: "Without him, the president would not be... I don't think
that it would be easy for him to rule, to rule the country -
to
govern the country. That's why when it was... requested... he was
requested.. to send him away my husband, he... he said, it was
absolutely a stupid demand because he knew very well that my husband can
do without him, but he, he could not do without my husband".
[ii]
Ngô Đ́nh
Nhu: "I am an anti-Communist from the point of view of doctrine. I am
not an anti-Communist from the point of view of politics or humanity. I
Consider the Communists as brothers, lost sheep. I am not for a crusade
against the Communists because we are a little country, and we only want
to live in peace". - Ngo Dinh Nhu, PBS. President Kennedy interview with
Walter Cronkite, Sept. 2, 1963.
[iii]
O'Leary
and Seymour viết: "Why is the US. Supporting a foreign government that
engages in religious persecution? Why is President Kennedy sending US.
Military personnel to help the government of a man who puts his own
people into concentration camps?"
LBJ:
Kennedy White House killed US. Ally (Tapes support new book showing who
really assassinated JFK / 2003 WorldNetDaily.com / 22/9/03
[iv]
Madame
Nhu: "My husband, he was very unhappy with... on one side his brother,
the other side, his wife. He considered both of us in the woods. He said
to his brother, "You should be a monk", and "You, ... to me, ... just
keep quiet... don't say anything". PBS, Mme Nhu Document 25/10/63, dẫn
như trên.
___________________
(*bt.)
Bản ở Web. Thư viện Hoa Sen có thêm một đoạn không quan trọng: "Điều
sau cùng muốn nói: Cách nay năm năm, tôi t́nh cờ được một Bà cụ người
Huế đến ở chung, trông con người Bà phảng phất nét sang cả, lại có hành
tung bí ẩn, lạ lùng... Tôi vô tâm, nên phải mất năm năm sau, đúng vào
dịp này tôi mới phát giác ra Bà là ai. Đó là chuyện linh thiêng, nhờ tôi
nh́n chăm chú vào đôi mắt sống động của người con gái của Bà đă tử nạn
như đang nói với tôi điều ǵ, và tôi bàng hoàng tỉnh ngộ, nhận ra Bà là
ai. Bài viết này cũng là lời tạ lỗi v́ những xúc phạm trong các bài viết
ở đâu đó của tôi, chỉ v́ sự thật lịch sử thôi và không hề chứa đựng sự
ác ư nào. Xin cảm ơn những ly "Café-au-lait" vào một vài buổi sáng Bà
pha cho, ngon như cà-phê Mụ Tôn bên góc đường trước cổng trường Âm nhạc
& Kịch nghệ Huế thuở nào. Cầu chúc cái chân bị té của Bà lành hẳn và
kính chúc Bà sống lâu trăm tuổi".
Nguồn:
Tạp chí điện tử Giao
Điểm, số tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_nvh_QD.htm
Thư viện Hoa Sen:
CHƯƠNG TR̀NH HỘI THẢO BỒ-TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC VỊ PHÁP THIÊU THÂN - Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, ngày 29-5-05
http://www.thuvienhoasen.org/qdhoithao-41-nguyenvanhoa.htm
Đưa lên
web.:
24-12 HB6 (2006)
24-12 HB6 (2006)
25-12 HB6 (2006), có sửa chữa vài lỗi gơ phím.
Trở về trang ngỏ &
mục lục trang của những người cùng thời / 1asphost
http://c.1asphost.com/TrXuan
An/an/trangcnncthoi/trangcnncthoi.htm
hoặc:
Trang ngỏ &
mục lục của tuyển tập thơ - văn - luận của những người cùng thời /
Google
http://www.tranxuanan-trangcnncthoi.blogspot.com
( xem tiếp luận của những
người cùng thời -- trang 3 )