TRẦN
XUÂN AN
m ù
a
h è
b
ê n
s
ô n g
(nỗi đau hậu chiến)
tiểu thuyết
nnhà
xuất bản
1997 & 2003
P H Ụ L Ụ C
III
( n g o à i s á c h )
& CUỐI SÁCH
Tiểu thuyết
MÙA HÈ BÊN SÔNG
Bản in vi tính lần thứ
ba
(có sửa chữa, bổ sung):
25.10 - 19.12.2003
[HB.3]
Bổ sung tư liệu tham khảo (ngày 20-04 HB6
[ 2006 ]):
Phụ lục 3 về nhân vật lịch sử LÊ DUẨN
Mặc dù BBCVietnamese.com đôi khi có những bài
viết về lịch sử, xă hội không thật chính xác, đề cao nhiều nhân vật, nhất là
nhân vật (văn hóa, kinh tế, tôn giáo...) hiện thời không thật khách quan,
nhưng cũng phải thừa nhận BBCVietNamese.com
có tinh thần rộng mở, chấp nhận nhiều chủ kiến khác nhau
về mọi lĩnh vực, kể cả chủ kiến chính trị.
Bài viết (4 ḱ) dưới đây chỉ đề cập đến nhân vật lịch
sử Lê Duẩn (1907 - 1986), một nhân vật lịch sử lớn, ở vị trí tối cao, có vai
tṛ quyết định... Tuy vậy, hầu như thông qua nhân vật lịch sử này, bài viết
c̣n phác họa được những nét cơ bản của một giai đoạn lịch sử, chủ yếu ở
chính trường Hà Nội (1954 - 1975)... Do đó, tôi nhận thấy nên mạn phép BBCVietnamese.com để đưa bài viết vào cuối tiểu thuyết "Mùa hè bên sông"
(Nỗi đau hậu chiến) này nhằm làm tư liệu tham khảo, ít ra cũng giúp
cho người đọc có một ư niệm toàn diện hơn, cho dù bài viết có thể c̣n ít
nhiều sai lệch, thiếu sót.
Dẫu sao, bài viết cũng gợi mở và cung cấp những điều
mà người viết tiểu thuyết là tôi, cách đây khoảng 10 năm (ở thời điểm Việt
Nam đă trải qua 10 năm Đổi mới!), không phải không dè dặt, và đă tránh né
(*).
TXA.
Bài của BBCVietnamese
02 Tháng 5 2006 - Cập nhật 12h14 GMT
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2006/05/060502_leduan_profile.shtml
Nhìn
lại vai trò của ông Lê Duẩn
(kỳ 1)
Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ
1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất
lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất.
Vì nhiều
lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa được giải mật,
cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết được hết mức độ
ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy
chục năm qua.
Nhưng gần
đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền
tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò và di sản của
Lê Duẩn tại Việt Nam.
Theo giáo
sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with
China", 2001), Lê Duẩn là
một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp
nhận một giải pháp thỏa hiệp.
Làm
cách mạng
Sinh ra ở
Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội“
năm 1928 và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm
1930.
Năm 1931,
ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được bổ nhiệm
làm Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối năm đó,
ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936, được trả tự
do sau khi phong trào Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp và
ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.
Lê Duẩn bị
bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Các nhà tù
thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các “đại học cách mạng”
nơi có việc tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và tuyển mộ người
cho Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm
ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông trở thành
nhà cách mạng cứng rắn và không ngại thử thách.
Sau khi ra
tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi chiến
tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ
ủy Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục miền Nam) cho đến năm 1954,
năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva về
Việt Nam và Đông Dương được ký kết.
Hòa hay
chiến?
Nhiều nhà
nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký,
nhiều cán bộ kháng chiến miền
Nam đã rất
thất vọng.
Sau khi
tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà Hiệp
định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc giục Hà Nội
chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở miền Nam.

Hiệp định Geneva
1954 khiến nhiều người không
hài lòng
Nhưng ban
lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là Đảng Lao Động)
không muốn thông qua phương án này.
Theo giáo
sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade, Honolulu, người viết một
tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò của Lê Duẩn, đã tìm cách
giải thích cho sự miễn cưỡng của ban lãnh đạo Bắc Việt lúc đó.
Thứ
nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc Việt
thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất và tập thể hóa. Nhưng
chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính.
Thứ hai,
lực lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau tám năm đánh
Pháp.
Thứ ba,
Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào lúc này,
nhiều người trong Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh
và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự vào miền Nam nếu
không bị khiêu khích và sự sống còn của chính phủ Sài Gòn không
bị đe dọa.
Cuối cùng,
Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán thành chính
sách “chung sống hòa bình” của Nikita Khrushchev. Theo chính sách
đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với
phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.
Theo giáo
sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng Bắc Việt
không mở lại giao tranh, mà – cùng với Bắc Kinh – còn thúc giục
Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác biệt với
chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.
Không
muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác bỏ chiến
lược mới của Moscow và ủng
hộ đấu tranh vũ trang, Hà Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu
thúc đẩy chính sách vũ trang vượt qua giới tuyến 17.
Sau Phiên
họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám – Chín
1956, Tổng Bí thư Trường Chinh bị buộc từ chức sau những sai lầm
của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Ông Hồ Chí
Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho đến khi tìm
ra một ứng viên thích hợp cho vị trí này.
Cuối năm
ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp hành, ông Lê
Duẩn gửi ra Hà Nội Đề cương cách mạng miền Nam, một trong những
tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt Nam sau 1954.
Tài liệu
này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc họp của cán
bộ miền Nam ở Phnom Penh đầu tháng 12-1956, trước khi ông Lê Duẩn
chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà Nội.
Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự
gia tăng hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam, một quyết định
sau đó được Bộ Chính trị thông qua.
BBCVietnamese
_____________________________________
Bài của BBCVietnamese
04 Tháng 5 2006 - Cập nhật 13h24 GMT
Bắt đầu
cuộc thâu tóm quyền lực
(kỳ 2)
Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sự
kiện này đánh dấu việc Đảng Cộng sản ra công khai sau khi đã
tuyên bố “tự giải tán” vào tháng 11-1945.

Trong các lãnh
đạo cộng sản, ông Lê Duẩn được xem là người có kinh nghiệm hoạt
động lâu nhất ở ba miền và ở tù lâu nhất
Cũng tại
Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết
định đổi tên thành Đảng Lao Động.
Năm 1957,
Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và chọn ông
làm quyền Tổng Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.
Quyết định
đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của
Đảng về tình hình ở miền Nam.
Sau này,
viết trong tạp chí "Nghiên cứu Lịch sư"̉ (tháng Bảy 1969), nhà cách
mạng miền Nam Trần Văn Giàu xác nhận giai đoạn 1957-59 là “những
ngày đen tối nhất” cho phong trào cách mạng ở miền Nam.
Nghị
quyết 15
Tuy vậy,
mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở miền Nam,
chính sách của Đảng Cộng sản lúc này không xem việc đẩy mạnh
bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 14
vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét tình hình ở
miền Nam, mà đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển kinh tế và văn
hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được Quốc hội và Bộ Chính
trị thông qua.
Ông Lê Duẩn
không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng trước đó, Bộ
Chính trị cử ông vào miền Nam để đánh giá tình hình. Khi quay về
Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn là nhiều bí thư
đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần Lương và Võ Chí
Công.
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường
vận chuyển vũ khí và người từ Bắc vào Nam
Tại phiên
họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những người này đã mô tả
về “phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm” và thúc
giục Ban Chấp hành TƯ ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang.
Theo nhận
định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của giáo sư Pierre
Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo cáo của ông Lê Duẩn và
các đồng chí miền Nam “nắm bắt cảm giác thất vọng của những
người chiến đấu và ủng hộ cuộc cách mạng ở miền
Nam".
“Họ cũng
thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng chiến miền Nam
muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng tăng của Mỹ dành
cho chính quyền Sài Gòn".
Hội nghị
Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó một mặt
vẫn nhấn mạnh cách mạng ở miền Nam “có khả năng hoà b́nh phát triển”,
nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương hướng “khởi nghĩa đánh đổ chế độ
Mỹ - Diệm".
Nghị quyết
15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền
Nam vào cuối thập kỷ 1950.
Quyết định
tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết định tại Hội
nghị Trung ương 15 tổ chức tháng Giêng 1959, nhưng chỉ được chính
thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng thống Ngô Đình
Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.
Hà Nội
cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền Nam bằng
việc gửi quân và tiếp viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận mang bí số
559 được thành lập để “mở đường tiếp vận cho mặt trận phía nam". Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên lên đường vào Nam
qua tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn (‘đường mòn Hồ Chí Minh’).
Có thể
nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo cách
mạng miền Nam, trong đó có Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị thông qua
nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp hành TƯ
phản đối. William Duiker (trong quyển ‘Hồ Chí Minh’, 2000) nhận xét
đa số lãnh đạo trong Đảng “đồng ý rằng đấu tranh vũ trang có thể
là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã thất bại". Tuy nhiên,
vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều người ở miền Bắc không tin
rằng các “lựa chọn” khác đã được cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa
chín muồi để chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang.
Pierre
Asselin cho rằng “nếu không có sức ép lớn của miền Nam lên ban
lãnh đạo miền Bắc, thì Nghị quyết 15 – quyết định tái bắt đầu
chiến sự sau sáu năm gián đoạn – đã không được thông
qua".
Tổng Bí
thư chính thức
Đảng Lao
động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào tháng Chín 1960.
Nghị quyết đại hội kết luận cách mạng Việt Nam sẽ đồng thời thực
hiện hai mục tiêu: “tiến hành cách mạng xă hội chủ nghĩa ở miền Bắc” và
“giải phóng miền Nam."

Tại Đại hội Ba
năm 1960, ông Lê Duẩn chính thức được bầu làm Bí thư thứ nhất của
Đảng Cộng sản
576 đại
biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và là người
đứng đầu Bộ Chính trị.
Vì sao lại
là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ Nguyên Giáp, người
được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ sau ông Hồ Chí Minh?
Theo giải
thích của ông Bùi Tín trong quyển "Hoa xuyên tuyết", ưu thế của ông
Lê Duẩn là v́ “một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu năm, một bằng
cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, v́ từ đó được coi là được
thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn".
Hoàng Tùng,
trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí "Cộng sản", cũng nói Lê Duẩn
là người "hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lâu dài nhất,
thời gian ở tù lâu nhất" và có "quan hệ rộng với các đồng chí thuộc cả
hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật".
Tuy nhiên,
“nhược điểm” ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy
nhất dẫn đến việc ông Duẩn được chọn.
Tính chất
của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở thành một
ứng cử viên thích hợp hơn. Thứ nhất, niềm tin của ông Lê Duẩn
vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin
hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu
tiên phát triển công nghiệp nặng” (Nghị quyết Đại hội Ba.) Thứ hai,
và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt động của Lê Duẩn ở miền
Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức và uy tín có thể giúp
mục tiêu “giải phóng miền Nam” và điều hòa sự hợp tác giữa cán
bộ hai miền.
Ralph Smith
(trong quyển “An International History of the Vietnam War”, 1983) cũng
ghi nhận thêm một chi tiết: thành công của ông Lê Duẩn ở Đại hội
Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức cơ cấu lãnh đạo mà sẽ
kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập niên sau đó.
BBC trich
riêng để nhấn mạnh:
"[Lúc này] quanh Lê Duẩn vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu
nhiều ảnh hưởng, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng
trong việc giải quyết vấn đề miền Nam".
Pierre Asselin
Ralph Smith
chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước đã được loan báo
ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới bầu
ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục là thủ tướng, với năm phó thủ
tướng (trong đó có Võ Nguyên Giáp và Phạm Hùng); nhưng ông Trường
Chinh không còn là phó thủ tướng mà chuyển sang làm chủ tịch
Quốc hội. Những người thân cận của ông cũng bị đưa ra khỏi chính
phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương không còn có mặt
trong Bộ Chính trị.
Tại Đại
hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình thành gồm các
ông: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng,
Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê
Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng
được bầu là thành viên dự khuyết.
Pierre
Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối với
công việc của Đảng Lao động và chính phủ còn hạn chế.
“Xung quanh
ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, phong độ
và được quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên
Giáp, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc
giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính trị đã thông qua
Nghị quyết 15".
Kết quả
là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm
bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo
khác kỳ cựu hơn.
Đây cũng
là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Nghị quyết 15
đã được thông qua từ năm 1959, nhưng ngay cả sau Đại hội Ba năm
1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa thúc ép ban lãnh
đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ Chí Minh và nhiều
lãnh đạo khác cảm thấy còn nhiều vấn đề cản trở việc vạch ra
một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác động có thể có đối với
Moscow, Bắc Kinh và Washington.
Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh
chóng thay đổi. Chỉ sau vài năm kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư,
ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.
BBCVietnamese
_____________________________________
Bài của BBCVietnamese
10 Tháng 5 2006 - Cập nhật 14h01 GMT
Cuộc
đấu tranh trong nội bộ
(kỳ 3)
Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu
làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của
mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Một câu
chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê Duẩn thời kì
đầu được Thượng tướng Trần Văn Trà kể lại trong quyển
"Những
chặng đường lịch sử của B2 thành đồng" (1992).
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Trong thập niên 1960, nhóm của ông Lê
Duẩn phê phán 'chủ nghĩa xét lại hiện đại'
Một ngày
của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về cuộc chạm
súng giữa một trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và nhóm quân của
những người kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Theo bản tin, hai bên
rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương vong. Ông Trà rất
ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC sai lạc, hoặc khả
năng tác chiến của những cán bộ kháng chiến miền Nam cần được
cải thiện.
Ngày hôm
sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê Duẩn và nói
cần đưa cán bộ tập kết vào Nam để tăng cường đào tạo cho các
đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị gửi 100 cán bộ
trẻ từ Bắc vào Nam.
Ông Lê Duẩn
ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính trị chưa quyết.
Khi ông Trà nhấn thêm, ông Duẩn hỏi liệu có giảm số lượng được
không.
Con số mới
đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách nhiệm nếu
con số nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, họ đồng ý về con số 25 người.
Tuy vậy,
thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá
vỡ.
Chiếm ưu
thế
Những
nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông Hồ Chí
Minh mất dần ảnh hưởng trong tiến trình ra quyết định của Đảng
Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Ảnh hưởng của ông Hồ Chí Minh trong
tiến trình ra quyết định của đảng thập niên 1960 bị suy
giảm
Nói như
William Duiker, trong cuốn "Hồ Chí Minh" (2000), vai trò của ông Hồ
ngày càng bị hạn chế ở tư cách “một nhà ngoại giao kỳ cựu và
cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng thời làm tròn hình ảnh
người cha tinh thần của nhân dân và linh hồn của cuộc cách mạng". Uy tín cùng mối quan hệ rộng rãi – chẳng hạn, ông Hồ có quan hệ
hữu hảo với Mao Trạch Đông – khiến nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong
Đảng Lao Động Việt Nam, dù muốn hay không, cũng không thể loại
hẳn ông ra khỏi tiến trình chính trị và ngoại giao.
Dù vậy,
tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào miền Nam năm
1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong đảng chủ yếu chỉ còn
mang tính lễ nghi.
Một trong
những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp, cũng bị cô
lập sau này. Đối với dư luận quốc tế đương thời, Võ Nguyên Giáp
là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí Minh, trong cuộc
đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều người trong và ngoài
Việt Nam thừa nhận ông là kiến trúc sư tạo nên thắng lợi lẫy
lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội miền Bắc, vị đại tướng
có uy tín lớn.
Sau việc ký
kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người khác ủng hộ
đấu tranh vũ trang ở miền Nam, trong khi ông Giáp thuộc nhóm chủ
trương kiềm chế và thận trọng.
Ông Giáp,
giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương “chung sống hòa bình” mà
Liên Xô đưa ra lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng phải xây dựng
nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu
tranh vũ trang ở miền Nam.
BBC trich
riêng để nhấn mạnh:
"Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ
trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo trung
thành".
Pierre Asselin
Thái độ
này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho ông Lê Duẩn.
Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt được ảnh hưởng của ông
Giáp trong bộ máy lãnh đạo của đảng. Việc cô lập tướng Giáp –
cùng nhiều đảng viên cao cấp khác – đóng vai trò quan trọng cho
việc tìm hiểu ông Lê Duẩn vì nó cho thấy người anh hùng trên chiến
trường chưa hẳn là người chiến thắng trên chính trường.
Trong tiểu
luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent
Vietnamese State”, trình bày lần đầu ở hội nghị quốc tế về Việt
Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin nhận xét: “Giống như Mao
và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc
cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông
Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ
trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách
mạng".
“Ký ức về
Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê Duẩn tin rằng
để cách mạng thành công, ông phải loại bỏ hết những ai không tin
vào chiến thắng bằng mọi giá".
Nhiều
chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi
là “vụ án xét lại – chống Đảng".
Tranh
cãi tư tưởng
Hồi ký
“Tử tù tự xử lí” của Trần Thư, người bị dính vào vụ được quen
gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, mô tả không khí lúc bấy
giờ là “tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc” và “nếu có
ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai
miền thì cũng chẳng dám nói ra".
Mâu thuẫn
giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích đạt đỉnh cao
ở Hội nghị TƯ 9 năm 1963 và sau đó, tăng tốc với đợt bắt giữ
nhiều người ở Hà Nội vào năm 1967.
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch
Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ (bên trái), năm 1963 đánh dấu việc hai
nước xích lại gần hơn
Tháng Giêng
1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội và ra một tuyên
bố chung phản ánh quan điểm của Liên Xô và ca ngợi chung sống hòa
bình là “chính sách đúng đắn nhất".
Nhưng sau
khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm tạm gọi là “thân Liên
Xô” và “thân Trung Quốc” trong đảng Lao Động căng thẳng hơn. Ngoại
trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm cho tuyên bố chung của
Novotny và bị thay bằng ông Xuân Thủy.
Sử dụng tư
liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong bài nói về
“chủ nghĩa xét lại” ở Bắc Việt, đăng trong tạp chí
"Journal of
Cold War History" tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán Đông Đức ở Hà Nội
năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã…đã
được giao cho các cán bộ “theo sát đường lối Trung Quốc".
Đây là các
biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu
Thiếu Kỳ, đến Hà Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm đưa Hà Nội đến
gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và
“cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc
tế.
Tư liệu
giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan điểm gần Liên
Xô như Đông Đức, Hungary và Tiệp Khắc, trong năm 1963, đã báo cáo
rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản ánh quan điểm “thân
Trung Quốc".
Sứ quán
Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận “các nhân tố thân Liên Xô”
trong đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống.
Đến tháng
Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung
ương, được in trên báo "Nhân Dân". Trong đó, tác giả nói một số
đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi
ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.
Phía Đông
Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức Thọ là “một
sự tấn công trực diện nhắm đến các đồng chí chia sẻ quan điểm
thân Liên Xô,” và là một bước lớn trong sự chuẩn bị cho Hội nghị
Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.
Hội nghị
Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn ra cuối năm
1963 trong bối cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết chết tổng
thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu hỏi có nhân cơ
hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam hay không.
Đồng thời, cuộc cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc trên trường
quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong tình cảnh khó xử,
vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu thống nhất đất nước,
họ sẽ phải dựa vào hai đồng minh này.
Tại Hội
nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã
phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc
với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền
Nam.
Sau Hội
nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê phán “chủ
nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình
giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Xô, dưới
thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ trích).
Trong loạt
bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của ông Lê
Đức Thọ, được đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa nhận rằng một
thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài
báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ
nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm,
Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê
Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.
Ông Lê Đức
Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và
chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị TƯ 9.
Sứ quán
Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp học này,
theo đó, các học viên phải hiểu sâu sắc sự khác biệt giữa “chủ
nghĩa Mác - Lê chân chính” và “chủ nghĩa xét lại".
Nhà nghiên
cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn này “không
chỉ để đối phó các quan điểm bất đồng trong đảng, mà còn là
công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của người ở miền
Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang".
Diễn
biến 1967-68
Những tranh
cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp
tục trong giai đoạn 1967-68.
Ban đầu,
vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô, nhóm của ông Lê
Duẩn thận trọng không đưa ra các tuyên bố công khai phản ánh thái
độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự thảo nghị quyết của
Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn lên án trực tiếp
Khrushchev, nhưng do yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn này được bỏ đi.
Tuy nhiên,
Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1964,
quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị đánh bom
năm 1965 – những diễn biến này đã đưa Hà Nội và Moscow gần nhau
hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin
để theo đuổi
chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại một cách công khai và gay
gắt hơn.
BBC trich
riêng để nhấn mạnh:
"Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai tṛ quan trọng trong
xă hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức".
Sophie Quinn-Judge
Nghiên cứu
gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie Quinn-Judge công bố trên
tạp chí "Journal of Cold War History" tháng 11-2005, ước lượng trong sự
biến 1967-68, khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300
người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và
phóng viên truyền h́nh được đào tạo ở Moscow. Một trong những người bị
bắt đầu tiên là Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết
học, bị bắt tháng 7-1967 và bị tống giam.
Cần nói
rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra quyết định
của Đảng Cộng sản Việt Nam mấy chục năm qua.
Riêng trong
vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được mang ra xét xử.
Cho đến thập niên 1990, một số người còn sống và gia đình người
đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện xin phục hồi danh dự.
Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, “cho đến nay, chính quyền Việt Nam
vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư
khố của chính họ".
Có nhiều
cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.
Tài liệu
có tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống
đối” do Đảng Cộng sản phổ biến năm 1994, cáo buộc ông Hoàng Minh
Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng là đã nắm một
biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định gửi ra ngoại quốc,
đồng thời họ bị cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương
tŕnh hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.
Trong khi đó,
nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên nhân của “vụ
án chống Đảng” là vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm
họa xét lại” để hạ uy tín của ông Võ Nguyên Giáp. Chia sẻ phân
tích này, Judith Stowe, trong bài “Revisionism in Vietnam” (1995) nói
ông Võ Nguyên Giáp “là đối tượng chính của chiến dịch bài trừ
khuynh hướng xét lại".
Pierre
Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm “do quá nguy hiểm nếu
công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng
hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất
trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính phủ".
Sophie
Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể hiện một
cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không đơn thuần mang tính cá nhân,
trong nội bộ đảng.
“Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân
tộc (trong khuôn khổ liên minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ
kĩ thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng của quần chúng và sức
mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng
trí thức có vai tṛ quan trọng trong xă hội cộng sản, trong khi nhóm kia
đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức".
BBCVietnamese
______________________________________
Bài của BBCVietnamese
19 Tháng 5 2006 - Cập nhật 12h46 GMT
Một di sản
gây tranh cãi
(kỳ 4)
Sau kết quả của điều gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”,
cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê Duẩn.
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
Những
người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt và trở
thành một phần quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.
Các
đồng minh
Sự trợ
giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ trong suốt tiến
trình thâu tóm quyền lực là vô cùng quan trọng.
Tham gia
cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua nhiều năm
trong tù. Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền Nam và làm
phó cho ông Duẩn trong suốt giai đoạn xung đột giữa Việt Minh và
Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một ảnh hưởng sâu sắc
trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Đức Thọ
được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một vị trí mà theo
William Duiker, được nhanh chóng “biến thành bộ máy hiệu quả để
điều tra và kiểm soát các đảng viên".
Pierre
Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn “không thể củng cố uy quyền một
cách hiệu quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ của ông Lê Đức
Thọ; sự trung thành và trợ giúp của người này tỏ ra cần thiết
để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội".
Ghi
chú dưới một bức ảnh:
Ông Lê Đức Thọ được xem là đồng minh
thân cận nhất của ông Lê Duẩn
Một người
đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại tướng Nguyễn
Chí Thanh. Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc chỉ có hai đại
tướng bốn sao là ông Vơ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc pḥng kiêm Tổng tư
lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).
Một số
chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự cạnh tranh và
khác biệt trong tư tưởng quân sự giữa hai vị tướng này.
Trong một
bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở miền Nam là
một cuộc chiến kéo dài và rằng chiến lược quân sự có thể mất
nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói ông không tin vào “các trận
đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến
lược của kẻ thù".
Tướng Thanh
ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở tạp chí
"Học
Tập", tướng Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở miền Nam là con
đường đúng dẫn đến thắng lợi và nói thêm rằng lập luận của
những người chỉ trích là “không logich".
Một trong
những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh trở thành
đồng minh gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng quan điểm
rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở miền Nam phụ thuộc vào quân
sự.
Gần đây hơn,
trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người gốc miền Nam
trong cuộc chiến mang tựa đề “Why the South Won the American War in
Vietnam,” Robert Brigham ghi nhận tướng Giáp “từ lâu đã chỉ trích
tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và ông công khai bày tỏ nghi ngờ
về hiệu quả của chiến lược tấn công của tướng Thanh...Ông Võ
Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và thực tiễn trong cuộc
chiến chống Mỹ. Một số người nói điều này rốt cuộc khiến ông
đánh mất uy quyền chính trị".
Ông Lê Duẩn
hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể tạo ra chỉ
trích và chống đối. Vì thế, nói như lời của chuyên gia Pierre
Asselin, “bằng cách đề bạt và tạo điều kiện cho sự nghiệp của
tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong việc tạo nên
một thần tượng mới trong quân đội".
Mặc dù
đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, nhưng quan
điểm của ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng lợi nếu
thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, tiếp tục giữ ảnh
hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết thúc năm
1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ
miền Bắc vào Nam.
Bằng cách
giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh và tướng
Giáp, và đề bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn đã tạo ra
một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm tin và nguyên tắc lãnh đạo
của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.
Thời
hậu chiến
Cuối năm
1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Ông Lê Duẩn
tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên
chính thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê
Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần
Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí
Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt
và Đỗ Mười.
Nói về
những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David Elliott,
trong quyển sách được đánh giá cao
"The Vietnamese War" (2003), nhận
xét những thành viên cách mạng còn sống đến phút cuối cuộc
chiến “thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng
tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là
những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển".
“Họ đã
từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh hùng. Nhưng
họ cũng đã học những thói quen để sống còn mà giờ đây kiềm chế
sự phát triển của một hệ thống cởi mở hơn thời hậu chiến...Quan
trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi
quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích
của nhân dân, và thường trở thành cớ cho việc lạm dụng quyền
lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị
tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương
pháp".
Pierre
Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều người khi
cho rằng “dưới thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực nào xảy ra ở
Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất".
Tháng Bảy
năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ Sáu, ông Lê
Duẩn qua đời. Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ gần hơn với
Bắc Kinh – do ông Lê Duẩn sau này đã trở thành biểu tượng của sự
không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc – và sau đó, với
các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.
Cũng từ
1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng Bí thư, và
chính sách Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kì lãnh
đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.
Ở đây,
những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể được xem
là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời,
hơn là giống quá trình perestroika đang diễn ra khi đó dưới thời
Gorbachev.
Một tác
giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi Stalin qua đời
và Khrushchev lên kế nhiệm: “Đó là giai đoạn xôn xao, có phản ứng
sẵn sàng hơn trước các sức ép cả có thật lẫn được mong chờ,
một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới rộng sự tham gia chính
trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan trọng tự nhiên của nó, cũng
là chất xúc tác cho các sức ép và khuynh hướng vốn từ lâu tồn
tại bên trong xã hội nhưng đã không có cơ hội được bày tỏ và
nhận diện". Những diễn biến ở Việt Nam sau khi ông Lê Duẩn qua
đời gần với những gì đã xảy ra sau cái chết của Stalin hơn là
thời Gorbachev.
BBC trich
riêng để nhấn mạnh:
"Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn quyền lợi cá
nhân dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân". (David
Elliott, trích trong quyển The Vietnamese War)
Giai đoạn
nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống như thời Khrushchev, cũng
chấm dứt đột ngột để Đảng có thể bổ nhiệm một lãnh đạo khác
ít “cấp tiến” hơn, thận trọng hơn.
Có thể
đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông Lê Duẩn?
Với cương
vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần được thừa
nhận trong những quyết sách của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến
Việt Nam.
Mặc dù
miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, các
nghiên cứu gần đây – như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari Olsen – cho
thấy Hà Nội duy trì sự tự chủ trong cách tiến hành chiến tranh
chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời kì, cả Bắc Kinh,
Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi ngờ lẫn nhau. Dưới
thời ông Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác với Liên Xô và Trung
Quốc để đạt mục tiêu, nhưng không phải là con rối trong tay hai
cường quốc.
Các tài
liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca ngợi vẹn
toàn cho ông. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ chính thống
ấy còn là những sự tế nhị khác.
Cuối những
năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh – nguyên thư ký riêng
của ông Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.
Tập sách
này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách hoàn toàn ca
ngợi ông Lê Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì giọng văn quá ca
ngợi này, cuốn sách – vô tình hay cố ý – đã khơi lại những tình
cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý, tác giả nói một mục
đích khi viết sách là để chống lại hành động “làm lu mờ bôi nhọ
h́nh ảnh của Lê Duẩn".
Nếu quả
thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng “sau khi Lê Duẩn qua đời,
những người lănh đạo đất nước, những người trước đó đă ca ngợi Lê Duẩn,
không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đă cố ư hay vô t́nh để cho
chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn,” thì là vì
sao?
Trong giai
đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi.
Vì thế, như chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự nghi ngờ của ông Lê
Duẩn lớn đến mức ông “dựa vào chỉ một vài cá nhân trong việc
tìm lời khuyên và chuyên môn". Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà từ
1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc – Trung – Nam) đã được
dùng khi xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà nước ở Việt Nam. Những
bất mãn về sự tập trung quyền lực trong tay vài người đã là
một trong các nguyên nhân dẫn tới việc phân bổ quyền lực rộng hơn
sau 1986.
Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu “Lê Duẩn and
the Break with China”
(2001), nhận xét ông Lê Duẩn “là lãnh đạo có quyền lực lớn thứ
hai ở Việt Nam trong thế kỷ 20". Quyền lực ấy đã được sử dụng
thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì nghiên cứu nào trong
tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời đầy đủ.
BBCVietnamese
_____________________________
Chú thích lời dẫn của TXA.:
Trích lại mục 15 chú thích 2:
http://c.1asphost.com/TrXuanAn/an/mua_hbsong/mua_hbsong_ct2.htm
"... Trên tinh thần khoa học, chúng
tôi không dám khẳng định các chi tiết cụ thể, sinh động về hành trạng
chính trị, nhất là về đời tư của các nhân vật lịch sử hiện đại (giữ vai
tṛ chủ yếu nửa sau thế kỉ XX) có đề cập trong tiểu thuyết này là đúng với
sự thật lịch sử. Đó chỉ là những "thông tin chưa kiểm chứng" trên các đài
phát thanh nước ngoài, những dư luận trong đời sống, trên sách báo...
Chúng tôi chỉ làm công việc phản ánh dư luận xă hội đồng thời minh định
các "thông tin", dư luận ấy, với điều kiện hạn chế của người viết tiểu
thuyết, trong khi chờ chính sử hiện đại được công bố. Tuy nhiên, tôi vẫn
băn khoăn, liệu bộ chính sử hiện đại có được trung thực, hay các nhà sử
học hiện nay chỉ biên soạn sử để tuyên truyền, và đành chấp nhận thua kém
cả những bộ sử thời phong kiến về tính trung thực? Phương châm đồng thời
cũng là nguyên tắc ngày xưa khẳng định quyền hạn và tính độc lập của các
nhà chép sử, đại ư: Trong nước có ba đại quyền tối thượng:
quyền sử gia,
quyền Trời, quyền vua. Trong ba loại quyền to lớn ấy, quyền sử gia c̣n
được đặt trước cả quyền Trời, quyền vua. Sử gia phải có quyền bất khả xâm
phạm (không một ai, một thế lực nào có thể làm sức ép, chi phối, cưỡng bức,
giam tù, giết hại, kể cả quyền lực đế vương). Phương châm - nguyên tắc ấy
là kim chỉ nam và là quyền hạn được xác định, nhưng cũng là vũ khí để đấu
tranh trước các loại sức ép. Vũ khí phương châm - nguyên tắc đó của sử gia
không phải chỉ được sử dụng trong thời xa xưa mà trong mọi thời, kể cả
thời toàn xă hội xem quyền Trời là không có thật. Thời đại nào quyền bất
khả xâm phạm của sử gia được tôn trọng và bảo vệ với cơ chế cụ thể, có
hiệu lực, được trang trọng ghi vào pháp luật, thời đại đó tự thắp sáng
tính ưu việt của nó trong lĩnh vực rất cần sự trung thực, quang minh chính
đại này.
Trước khi bộ chính sử hiện đại thật sự trung thực được
công bố, nhà xuất bản và bạn đọc có thể cắt bỏ hoặc lướt qua (xem như
không có) các chi tiết như trên đă viết, để tránh bị các lực lượng, các cá
nhân thù địch, tâm địa không tốt lợi dụng với mục đích xấu".
TXA.
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ư TƯỞNG
CỦA M̀NH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
Bổ sung trong lần đưa "Mùa hè bên sông" lên "Website Trần
Xuân An",
10 tháng 05 HB6 [ 2006 ]:
Trân trọng kính mời xem thêm trang Diễn đàn thuộc Website
này:
+++ Tạp chí điện tử Giao Điểm tháng
12 - HB5 ( 2005 ):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_txa-duonglich.htm
+++ Tạp chí điện tử Giao Điểm tháng
01 - HB6 ( 2006 ):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/106_txa-tiengNambo.htm
+++
Tạp chí điện tử BBCVietnamese, tháng 3
HB6 [ 2006 ]:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2006/03/060307_tranxuanan.shtml
(bài viết, bài trả lời
của TXA. cùng những ư kiến thảo luận của nhiều độc giả)
(
link Diễn đàn BBC:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/
hoặc BBCVietnamese
Search )
+++
Tạp chí điện tử Giao Điểm, tháng 3
HB6 [ 2006 ]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_txa-dadang.htm
cũng là bài viết trên của TXA.;
và bài trao đổi
với TXA. của Nguyễn [Sài G̣n]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_ykien-nguyen.htm
bài trao đổi của Trần
Nguyễn Dụng [TP. HCM.]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_ykien-2parties.htm
( hết )
Bổ sung tư liệu tham khảo (ngày 20-04 HB6
[ 2006 ]):
Phụ lục 3 về nhân vật lịch sử LÊ DUẨN