TRẦN
XUÂN AN
m ù
a
h è
b
ê n
s
ô n g
(nỗi đau hậu chiến)
tiểu thuyết
nnhà
xuất bản
1997 & 2003
P H Ụ L Ụ C II
( n g o à i s á c h )
& CUỐI SÁCH
Tiểu thuyết
MÙA HÈ BÊN SÔNG
Bản in vi tính lần thứ
ba
(có sửa chữa, bổ sung):
25.10 - 19.12.2003
[HB.3]
Trần Xuân An
Sáng
tháng giêng
ở
G̣ Đống Đa
1
lặng ḿnh trước tượng
đài Quang Trung
g̣ Đống Đa dưới chân
tôi!
Nắng tỏa
từ quản bút lưng trâu
và chú bé Hồ Thơm (1)
trên đèo núi chập chùng
từ thanh gươm Nguyễn
Huệ Tây Sơn
nghe sử thi thắp tim
ḿnh chói lóa
2
ông cha vào khai khẩn
đất phương nam
măi xót ḷng nỗi cằn
cỗi Nghệ An
phải đổi họ lấy chút
yên thân nơi xứ lạ
vua, và hai chúa hai
Đàng
Đất nước nát tan
đành dựng cờ đào trên
rối bời tàn phá
với thanh gươm nghĩa cả
3
lần đầu tiên ra đây đến
ngồi trên ghế đá
tôi ngẩng mặt trên bàn
đá
đọc lời hịch hào hùng
chói ngời dân dă
chạm lên tảng đá
sáng rọi ngh́n sau
ngước nh́n tượng đài
Ông cao vút trời sâu
mắt Quang Trung
nh́n tận Cửu Long
- lũ lũ đàn đàn quân
Xiêm tan ră - sạch làu!
mắt Quang Trung
vượt qua g̣ đất chiến
công
- một núi xác Tàu -
tầm kế sách vượt bao
triều vua vương giả
4
sao để măi hồn dân tộc
bao đời đành sáng
ngời trong văn tự lạ!
bắt con Trời Càn Long
đầu gật mày chau
Quang Trung lấy lại
Lưỡng Quảng ngh́n xưa
bằng
hào quang và một cỗ cau trầu!
(ôi lịch sử loài người!
những dân
tộc
những quốc
gia
dồn đuổi
nuốt tươi nhau!)
5
thực dân Phương Tây từ
lâu
ḍ la Bắc - Nam
run rẩy đưa cao thập
giá
run rẩy đưa cao nhánh
lá (2)
kèm bản đồ
giấu trong
hàng hóa:
thư về nước, ngẩn ngơ,
kinh hoàng
phơi ḷng dạ!
ngợi ca Át-ti-la Phương
Nam (3)
nét chữ bần thần
nghiêng ngả
nguyện cầu!
6
danh sĩ Bắc Hà tâm phục
đến chầu (4)
Hoàng đế Phương Nam, áo
vải,
da sạm nâu
rất mưu lược
sao hiền ḥa chân thành
quá
rất bản lĩnh
và ân t́nh đến lạ
7
lặng ḿnh trước tượng
đài Quang Trung
hiểu tuổi sống của
thiên tài Tây Sơn
thắp sức sống nhân dân
sáng bừng vận nước
nhưng Ai tư văn muôn
đời c̣n đau! (5)
đau đến muôn trùng!
8
tôi ngồi trên ghế đục
ra từ núi đá
ngẩng mặt trên bàn đục
ra từ núi đá
trên xác thù bạo ngược
g̣ Đống Đa
ngập nắng sáng, tháng
giêng
lá xanh, xanh mướt
thầm hát câu thơ về
người áo vải anh hùng
cảm khái dân tộc ḿnh
dựng lên tầm cao Tổ quốc
phải bằng sông máu núi
xương
và g̣ xác giặc điên
khùng!
ôi, g̣ xác này chỉ là
biểu trưng
một tầm cao, cao thẳm,
không biết
lấy ǵ đo được!
9
đâu rồi đền miếu, bát
hương thuở trước
đă thắng giặc bằng căm
thù
và bằng cả bao dung!
hương khói
tỏa lên dăm nét chữ chỉ
đích danh:
lũ rối sắt máu, từ tim
đen Càn Long
luôn chờ cớ xua quân
cướp nước!
ôi lịch sử
nhân và nghĩa
cho vô cùng!
10
Quang Trung
người dựng mùa xuân
trên nỗi tan hoang hai
miền Tổ quốc
bằng muôn triệu kiếm
cung
trổ lên từ đồng Nam
ruộng Bắc
bằng thanh gươm lóe
thép Tây Sơn
bằng mùa mai thắm tươi
ra Bắc
bằng mùa đào sáng bừng
vào Nam
mùa xuân nối liền
vết thương sông Gianh
hai trăm năm
đau thắt Miền Trung
11
Hồ Thơm: Nguyễn Huệ:
Quang Trung!
từ Nghệ An cỗi cằn
ông cha vào phương nam
khai hoang
cánh chim Phượng Hoàng
mơ về đậu đỉnh xanh núi
Quyết
chỗ đ̣n gánh kê vai
gánh trĩu mùa vàng
chín rạn và bầm huyết
phải chăng
Trung Đô (6)
chiến lược nối liền Nam
- Bắc hai Đàng?
và phải chăng
lệch t́nh ruột thịt cố
hương nên nghiêng đổ hết?
12
Quang Trung
chỉ là lực biến dịch
cho sông
Gianh thôi gào thét?
để vận nước nối liền
bằng thanh gươm Gia Long
cựu thần Đàng Ngoài
cuồng trung giẫy chết
Nguyễn Du khóc Kiều đứt
ruột đắng ḷng
qua Đèo Ngang, buổi
nắng tà uá rét
"quốc quốc gia gia" hoài
Lê thê thiết
Bà huyện Thanh Quan
tự đục tên
khỏi gia phả nhà chồng? (7) (7b)
ngỡ ḿnh là Hán tộc
Hồng Tú Toàn,
Cao Bá Quát
huà theo lũ châu chấu điên ngông (8)
quyển thơ
thiên tài máu bết!
Phê-rô Tạ Văn Phụng (9)
mạo danh con
vua Đa-vít Viễn Đông
Kinh Thánh
rao giảng ngược,
ngược ngôi sao Na-za-rét (10):
“Nhà
Nguyễn là đế quốc La Mă bên sông Hương!”
- ngược lời,
lâu la hú
hét -
máu chảy
ngược sông Hồng!
ôi, Quang Trung! Quang
Trung!
chỉ là lực biến dịch
cho sông
Gianh thôi gào thét?
để Đàng Ngoài cứ măi
hoài Lê
với nỗi
cuồng trung!
13
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
ngồi trên g̣ Đống Đa
trên đỉnh cao chiến
công Quang Trung
nắng hồng xanh non cỏ
cây tháng Tết
tôi ngước nh́n Quang
Trung
Quang Trung, Quang
Trung, lực biến dịch
loé chớp
lành lặn vết
thương sông Gianh
nối liền non
sông nối liền biển biếc
trước thanh gươm vó
ngựa Gia Long
Đàng Ngoài phải chăng
tự dựng mùa đông?
mùa đông lan vào Đàng
Trong
trăm năm thực
dân tàu đồng súng thép...
Giê-su vô can, mười
chín thế kỉ Người đă chết
sao giáo đường
sáng trưng
thắp bằng máu mỡ
Việt?
Đàng Ngoài - Đàng Trong
bỗng
chung một nỗi lạnh tê rỉ rét...
14
từ Hà Nội mùa xuân
ngậm ngùi tưởng tiếc
Quang Trung, Quang
Trung
tôi chợt hiểu chút máu
thái thú bao đời trong Ông
măi vỡ mạch muôn đời
trên trang sử chép
vết thương Bến Hải đă
xa, xa lắc, trập trùng
tôi viết từ uẩn khúc
Miền Nam,
uẩn khúc thuyền
nhân:
"nội - nội phân tranh
ngoại - ngoại phân
tranh"
lịch sử viết
thẳng hay uốn cong?
và sao vang ra tận đây
- Hà Nội
mùa xuân -
những
tiếng khóc ṛng?
vết thương Bến Hải
thiếu vắng
một Quang Trung?
Quảng Trị quê hương
đau thương,
hào hùng, quyết liệt
sao vang ra đây
câu hỏi nghẹn
ngào róng riết
thiên tài Lê Duẩn là
Quang Trung?
ư chí kiên cường Lê
Duẩn là Gia Long? (11)
lịch sử đă lặp lại
chăng?
lịch sử đă hoán vị hai
Đàng?
đâu rồi bao tấm ḷng
đau niềm chung da diết
ai đó c̣n thao thức,
khắc khoải, chờ mong
(ta
chờ mong trái tim ta rất Việt!) ?
sông Gianh - Bến Hải,
nắng nỏ, băo bùng
nỗi niềm đứt
ruột Miền Trung
vết thương
chưa thôi gào thét?
15
ra thăm Hà Nội, ngắm
hoa đào mùa Tết
tôi mỉm cười, bâng
khuâng.
Hà Nội, 05.03.1997
Tp. HCM., 20.03.1997 &
02.2004
TRẦN XUÂN AN
CƯỚC CHÚ của PHẦN NGOÀI SÁCH: bài thơ SÁNG
THÁNG GIÊNG Ở G̉ ĐỐNG ĐA:
(1) Nguyễn Huệ có tên thật là Hồ Thơm, vốn là
hậu duệ của ḍng họ Hồ Quư Ly (họ Hồ huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An; về sau
chuyển ra Thanh Hoá...). Hồ Quư Ly lại là hậu duệ của thái thú Hồ Hưng Dật,
người thiểu số (?) Trung Hoa, sang cai trị nước ta thời Bắc thuộc. Mặc dù
có gốc gác rất xa đời là người thiểu số (?) Phương Bắc (Trung Hoa), nhưng
thực chất huyết thống ḍng họ Hồ Thơm (Nguyễn Huệ, chi nhánh ở huyện Hưng
Nguyên, Nghệ An) đă pha trộn qua mấy chục đời để trở thành huyết thống
Việt. Dẫu vậy, vẫn có một bộ phận nhân dân không ủng hộ Quang Trung Nguyễn
Huệ v́ lẽ đó.
Có tư liệu cho rằng: Tổ tiên dăm ba đời
trước của Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) là lính thuộc quân binh họ Trịnh Đàng Ngoài.
Trong một đợt giao chiến với quân Đàng Trong, người lính ấy bị bắt sống,
và may thay, được chuá Nguyễn cho đưa vào B́nh Định khai hoang lập ấp, rồi
được phép định cư hẳn ở đấy. Từ đó, đất Tây Sơn tỉnh B́nh Định có một
nhánh họ Hồ vốn thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An sinh sôi nẩy nở,
nhưng lại đổi sang họ Nguyễn. Tư liệu này cần được khảo chứng thêm.
(2) Nhánh lá trong ngày lễ Phục sinh (theo sự
tích lịch sử - Kinh Thánh: nhân dân Do Thái tung hô Chuá Giê-su [Jésus],
hậu duệ vua Đa-vít [David]).
(3) Attila (người Hung Nô [Les Huns, Mông Cổ],
406? - 453): một danh tướng có tầm vóc thế giới, xét về mặt thiên tài quân
sự. Các cố đạo Thiên Chuá giáo vừa khâm phục, vừa lo sợ trước thiên tài
quân sự của Quang Trung; họ so sánh Attila với Quang Trung trong những bức
thư gửi về Pháp, Tây Ban Nha...
(4) Tất nhiên vẫn có rất nhiều cựu thần vua
Lê, chuá Trịnh chống đối: Phạm Thái (tác giả Sơ kính tân trang), Nguyễn
Công Tấn (thân sinh Nguyễn Công Trứ)...
(5) Ai tư văn, một bài thơ dài của Lê Ngọc Hân
(công chuá nhà Lê), vợ Quang Trung, khóc thương vị vua này khi ông băng hà.
(6) Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại Huế (lấy
hiệu là Quang Trung), nhưng về sau lại có kế hoạch dời đô về nguyên quán
Nghệ An. Địa điểm xây dựng kinh đô là vùng đất dưới chân núi Quyết, bên bờ
sông Lam. Tên kinh đô là Phượng Hoàng Trung Đô. Tuy nhiên, kế hoạch bất
thành.
(7) Xin xem chú thích (7 b).
(7b) Xin
đừng hiểu Bà huyện Thanh Quan đồng cảm với những người Chăm (““chợ” mấy
nhà”), khi dừng bước ở Đèo Ngang, vốn là biên giới Đại Việt – Chăm-pa thuở
nào. Cũng đừng đẩy xa ư tưởng đó, rồi cho rằng, người Đàng Ngoài với người
Chăm có chung một kẻ thù là các chuá Nguyễn, vua Nguyễn, khi cảm nhận hai
câu luận và hai câu kết của bài “Qua Đèo Ngang”:
Nhớ
nước, đau ḷng con quốc quốc
Thương
nhà, mỏi miệng cái gia gia
Dừng
chân đứng lại: trời, non, nước
Một
mảnh t́nh riêng, ta với ta
Đặc
biệt là câu thơ “một mảnh t́nh riêng, ta với ta”! Ấy chỉ là cảm xúc khi
chỉ c̣n ḿnh đối diện với chính ḿnh trong nỗi cô đơn. Cũng đừng đẩy xa
hơn nữa ư tưởng đó, để kết luận Bà huyện Thanh Quan vốn có gốc gác là Chăm,
tuy không ít người Đàng Ngoài đích thực là người Việt gốc Chăm (người Chăm
phải ra Đàng Ngoài nhập cư, từ thời Lư đến thời Nguyễn*).
[* Có bao
giờ họ muốn trở về Panduranga cũ
– Ninh
Thuận, B́nh Thuận ngày nay – ?].
Tôi
nghĩ thi sĩ đài các, trang trọng rất mực trong ngôn từ thơ ca này có thể
bị ám ảnh về biên giới lịch sử bởi câu sấm kí của Trạng Tŕnh: “Hoành Sơn
nhất đái vạn đại dung thân” (Đèo Ngang một dải vạn đời dung thân), khi
chuá Nguyễn Hoàng đến xin gặp Trạng Tŕnh để tham khảo ư kiến. Mặc dù
trong thực tế, sông Gianh mới là biên giới Đàng Trong – Đàng Ngoài, nhưng
trong tâm thức người Đàng Ngoài, Hoành Sơn (Đèo Ngang) mới là biên giới có
tính lịch sử.
Phải
liên hệ với các bài thơ khác của Bà huyện Thanh Quan, nhất là “Thăng Long
thành hoài cổ”, khi cảm thụ “Qua Đèo Ngang”.
(8) Phong trào Thái B́nh thiên quốc (bài Thanh
phù Hán) ở Trung Hoa do Hồng Tú Toàn lănh đạo; về sau biến tướng thành
giặc Cờ, quấy nhiễu các tỉnh biên giới nước ta để chiếm cứ đất, xưng hùng
xưng bá.
(9) Tạ Văn Phụng là một giáo dân, có tên thánh
là Pierre (Phê-rô). Tuân theo lời các cố đạo, các tên thực dân Pháp, Tây
Ban Nha, y mạo danh là hậu duệ vua Lê, với cái tên Lê Duy Phụng hoặc Lê
Bảo Phụng. Pierre Tạ Văn Phụng gây nên một cuộc nổi loạn phản quốc, kéo
dài nhiều năm, tạo thêm sức ép ở phía Bắc Ḱ, để triều đ́nh Huế phải kí
nhượng ước Nhâm tuất 1862, và mưu toan lập "xứ Bắc Ḱ thuộc Pháp "bảo hộ"".
Sau khi đạt mục tiêu, thực dân, cố đạo Pháp và Tây Ban Nha liền bỏ rơi
Pierre Tạ Văn Phụng! (10) Nazaret, quê hương của Chuá Jésus. Theo Kinh
Thánh, lúc Đức mẹ Maria sinh ra Chuá Jésus, trên trời có xuất hiện một
ngôi sao lạ. Ngôi sao này dẫn đường cho ba vị vua Trung Đông đến chầu.
(11) Không phải chỉ khi đề cập đến Gia Long (Nguyễn
Ánh), mới cần nhận thức theo quan điểm lịch sử - cụ thể, nhưng không thể
không nhấn mạnh như thế khi cần làm sáng tỏ, thoả đáng thêm về vấn đề này.
Chủ quyền Đất nước dưới chế độ quân chủ
cũng là một h́nh thức quan hệ sở hữu phong kiến (Đất nước và thần dân là
tài sản và tôi tớ của hoàng tộc cầm quyền, nối đời thừa kế). Do đó, Nguyễn
Ánh (Gia Long) đánh đổ triều Tây Sơn (ba anh em Nguyễn Huệ và Nguyễn Quang
Toản) là để giành lại cái gọi là quyền sở hữu Đất nước Đàng Trong và thần
dân của ḍng họ ḿnh, và thừa kế luôn cả Đàng Ngoài mà ḍng họ ông ta có
công trung hưng (vai tṛ công thần của Nguyễn Kim). Chủ quyền Đất nước và
nhân dân được xác lập theo quan hệ sở hữu phong kiến về tài sản và nô bộc
là một quan niệm phản động, cực ḱ phản động, nếu đứng ở giác độ dân chủ
để phê phán. Tuy nhiên, ở cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh vẫn
chính nghĩa theo quan niệm phong kiến! Và cũng cần khẳng định rơ: mối quan
hệ giữa Nguyễn Ánh và cố đạo thực dân Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) chỉ
là quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi! Sau khi nắm được ngai vàng hoàng đế,
chính Gia Long (Nguyễn Ánh) đă hạn chế sự bành trướng Thiên Chúa giáo! Như
thế, trên cơ sở đó, có thể có một nhận định: Quang Trung (Nguyễn Huệ) đáp
ứng được yêu cầu bức thiết của lịch sử là phải thống nhất Đàng Trong -
Đàng Ngoài (mặc dù công lao ấy phần nào c̣n bị hạn chế do t́nh trạng tam
phân giữa ba anh em Tây Sơn). Tuy nhiên, Gia Long (Nguyễn Ánh) không phải
không chính nghĩa, xét theo quan hệ sở hữu phong kiến về vương quốc, thần
dân; và Gia Long c̣n kế thừa cả sự nghiệp thống nhất Đàng Trong - Đàng
Ngoài của Quang Trung một cách tốt đẹp. Đó không phải là một nhận định "ba
phải", mà xét trên cơ sở sự thật lịch sử và xét theo quan điểm cụ thể -
lịch sử tiên tiến, khoa học nhất của chúng ta, trong thời đại dân chủ hiện
nay. Mặc dù đối với chúng ta hiện nay, chế độ phong kiến nói chung (chứ
không phải chỉ riêng triều Nguyễn) vốn đă trở nên quá lạc hậu, cực ḱ phản
động, "một đi, không bao giờ trở lại", nhưng cũng phải công bằng, thỏa
đáng trong việc nhận định lịch sử.
Nói một cách giản dị, Nguyễn Ánh không
dễ dàng ǵ để mất vào tay Tây Sơn sự nghiệp suốt hai trăm năm của ḍng họ
ông ta. Đó là sự nghiệp chín chuá Nguyễn đă lănh đạo nhân dân Đàng Trong
khai phá đất phương nam, từ Phú Yên đến Cà Mau!
Cũng nói một cách giản dị, nếu lấy tiêu
chí dân chủ hiện nay, nhất là dân chủ xă hội chủ nghĩa trên lĩnh vực sở
hữu ruộng đất (sở hữu toàn dân hay c̣n gọi là công hữu), để nhận định về
chế độ phong kiến quân chủ ... rồi trách cứ, th́ chẳng khác nào trách cứ
sao Nguyễn Du không sáng tác Truyện Kiều trên máy vi tính và phát hành
trên mạng VnExpress hoặc Cinet! Nhưng có người sẽ vặn lại tôi: Đâu rồi
quan điểm so sánh đồng đại? Từ năm 1848, giữa thế kỉ XIX, Karl Marx và
Fridrich Engels đă xuất bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản kia mà! Tôi chỉ biết
bảo người ấy nh́n ra thế giới ngay vào thời điểm này: Hiện c̣n bao nhiêu
nước theo chính thể quân chủ lập hiến (lập hiến nhưng vẫn c̣n vua chuá!)?
C̣n năm 1848, cách thời điểm Gia Long lên ngôi (1802) đến bốn mươi sáu
(46) năm! Nếu chọn thời điểm so sánh tương đồng, phải là 1789, năm cách
mạng tư sản Pháp nổ ra và cũng là năm Quang Trung đánh tan hai mươi vạn
quân Thanh, triều đại vua Lê - chuá Trịnh hoàn toàn tiêu tan; và lúc đó,
Nguyễn Ánh vẫn c̣n trường ḱ chiến đấu khôi phục. Nhưng cách mạng tư sản
Pháp tồn tại không bao lâu; rồi chính giai cấp phong kiến Pháp cũng xé
toạc Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền 1789 * để phục hồi đế chế quân chủ!
Vả lại, nên hiểu giới hạn tầm nh́n thời bấy giờ, cuối thế kỉ XVIII đến đầu
thế kỉ XIX, trong điều kiện chung là thông tin liên lạc c̣n hạn chế. Do đó,
giới hạn tầm nh́n thời bấy giờ là chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và
rộng hơn, là phạm vi châu Á... Hơn nữa, tầm nh́n c̣n bị quy định bởi bao
nhiêu điều khác, nhất là nền tảng dân trí toàn xă hội! Hiểu như thế, mới
thật là lịch sử - cụ thể. Không nên kéo lùi lịch sử hiện tại vào sự lạc
hậu (tụt hậu), cũng không nên cưỡng bức lịch sử quá khứ phải thật dân chủ
xă hội chủ nghĩa về quyền sở hữu Đất nước, tức là quyền làm chủ Đất nước (đúng
nghĩa là dân chủ đích thực, chứ không phải tṛ lừa từ ngữ *).
[* Đây không phải chỗ để đề cập đến các quyền
dân chủ cụ thể khác, về chính trị, xă hội, văn hoá...].
Ngoài ra, tưởng cũng cần nhắc lại một
nhận định xác đáng và công bằng của nhiều nhà nghiên cứu sử học về Gia
Long Nguyễn Ánh: Ông là một con người có nghị lực mạnh mẽ, vị vua sáng
nghiệp từ hai bàn tay đă trắng (có khi quân lính không c̣n một đội, lương
thực không có để dùng). Ông chỉ có một điều kiện thuận lợi, ấy là ḷng
trung thành của nhân dân Đàng Trong đối với các chuá Nguyễn tiền bối.
Ở chú thích này, tôi chỉ nhấn mạnh đến
nghị lực mạnh mẽ hay c̣n gọi là đức tính kiên cường của Nguyễn Ánh, nhất
là sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, từ Nam Quan đến Cà Mau. Và khi so sánh
tổng bí thư Lê Duẩn với Quang Trung, Gia Long ở ba khía cạnh đó, tôi hiểu
"so sánh nào cũng có sự khập khiễng".
04.HB3
& 26.02.HB4
(07.02 G. thân HB4).
TXA.
________________________________________
M Ộ T S Ố G H I C H Ú
( T
Ạ P L
Ụ C K Ỉ N I Ệ M )
K H I T H Ự C H I
Ệ N B Ả N T H Ả O :
HAI BẢN ĐĂ IN, SAO CHỤP, KHOẢNG 20 CUỐN:
+++
Bản thứ nhất, do anh Lê Kư Thương và chị Nguyễn Thị Kim Quy xếp chữ vi
tính từ bản thảo viết tay của Trần Xuân An, theo hệ QuartXpress, font
VnTimes, vào những tháng cuối năm 1997.
+++
Bản thứ hai, TXA. có sửa chữa, bổ sung, do Vơ Thị Lan Hà (con gái anh
Nguyên Minh) và Tạ Thị Vân xếp chữ chèn vào, trên cơ sở đĩa mềm của bản
thứ nhất, theo hệ Adobe PageMaker 7.0, font VnTimes, VNI-Times và
VNI-Centur, vào những tháng từ 6 đến 8, năm 2001.
HAI BẢN CHƯA IN, CHƯA SAO CHỤP:
+++
Bản thứ ba A, vẫn giữ nguyên nội dung, câu chữ như bản thứ hai, Trần Xuân
An chuyển sang hệ Word 2000, font VnTimes (từ trang 1 đến trang 465) và
font VNI-Times (phần phụ lục, từ trang 466 đến trang 560), vào hai tháng 3
& 4. 2003 (hoàn tất: 25. 04. 2003 [24.3. Quư mùi HB.3]), để tiện dụng.
+++
Bản thứ ba B, cũng vẫn giữ nguyên nội dung, câu chữ như bản thứ hai, nhưng
có bổ sung thêm một bút kí. Tác giả đă chuyển thành font VnNCentury và
font VNI-Centur, cỡ bát chữ lớn hơn (4 inches 3 vạch x 6 inches rưỡi [= 6
inches 4 vạch]), vào ngày 29. 06. 2003.
BẢN ĐĂ IN (bản gốc vi tính):
+++
Bản thứ ba C chính thức này đă được sửa chữa, bổ sung vào ngày 25.10.2003
(mùng 01 tháng 10 Quư mùi HB.3), tạm xong vào lúc 15 giờ 17 phút ngày
09.10.2003 (16 tháng 10 Quư mùi HB.3. Hoàn tất vào ngày 19.12.HB.3 (26.11.
Quư mùi HB.3). Bản in vi tính lần thứ ba C này được thực hiện tại Trung
tâm Đào tạo & bồi dưỡng tin học ứng dụng TP.HCM., 27 Phạm Văn Hai, Phường
1, Q. Tân B́nh, TP. HCM., với sự trợ giúp của anh Nguyễn Phi Tuyến (phụ
trách vi tính - photocopy), có kèm theo bản đính chính. Bản hoàn chỉnh (đă
chữa lỗi in ấn, có bổ sung vài chỗ) được thực hiện tại nhà riêng của tác
giả (TXA.), bằng máy in hp LaserJet 1300.
Xin lưu ư:
Khi chuyển hệ mă (VNI-Windows
sang Unicode) và kiểu chữ (font VNI-Centur sang font Arial), những ḍng,
những từ ngữ được cố ư in nghiêng hoặc in đậm đă bị biến đổi một cách lộn
xộn. Do đó, chỉ c̣n một cách là phải đọc lại và tŕnh bày lại (in nghiêng,
in đậm…). Hoặc, đơn giản nhất là nhất loạt đều không in đậm và đều không
in nghiêng (mặc dù như vậy th́ hơi đáng tiếc, nhưng có lẽ cũng không đến
nỗi nào).
Kính mong người đọc
lượng thứ. Xin cảm ơn.
TRẦN XUÂN AN
16
giờ ngày 16.11.HB.3
(23.10. Quư mùi HB.3)
23 - 29.11.HB.3
Khoảng 08 giờ 01.12.HB3. -
10 giờ 32 phút, ngày 02.12.HB3.
(08 - 09.11 Q.mùi HB3.)
17 giờ 17 phút, ngày 04.12.2003
(11.11. Quư mùi HB.3).
15 giờ 25 phút, ngày 09.12.HB.3
(16.11. Q. mùi HB.3).
09 giờ 23 phút,
ngày 12.12.HB.3 (19.11. Quư mùi HB.3)
và 15 giờ 38 phút, ngày 18.12.HB3 ( 25.11 Q.mùi HB3).
Hoàn tất vào ngày 19.12.HB.3 (26.11. Quư mùi HB.3).
TXA.
GHI CHÚ THÊM Ở CUỐI SÁCH:
ĐĂ GỬI & TẶNG BẢN IN VI TÍNH LẦN THỨ BA NÀY:
(*) Đă nộp bản thảo MHBS.
(có phụ lục II, “Về vài trang đảo ngược sự thật lịch sử trong VNVQS.”;
không có phần ngoài sách – bài thơ về Quang Trung) tại NXB. Văn Nghệ
TP.HCM., ngày 15.02. 2005 (mùng 7 Tết Nguyên đán Ất dậu) cùng với bản thảo
Ngẫu hứng đọc thơ.
TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ư TƯỞNG
CỦA M̀NH.
TRÂN TRỌNG VÀ THÀNH THẬT BIẾT ƠN.
Bổ sung trong lần đưa "Mùa hè bên sông" lên "Website Trần
Xuân An",
10 tháng 05 HB6 [ 2006 ]:
Trân trọng kính mời xem thêm trang Diễn đàn thuộc Website
này:
+++ Tạp chí điện tử Giao Điểm tháng
12 - HB5 ( 2005 ):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_txa-duonglich.htm
+++ Tạp chí điện tử Giao Điểm tháng
01 - HB6 ( 2006 ):
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/106_txa-tiengNambo.htm
+++
Tạp chí điện tử BBCVietnamese, tháng 3
HB6 [ 2006 ]:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2006/03/060307_tranxuanan.shtml
(bài viết, bài trả lời
của TXA. cùng những ư kiến thảo luận của nhiều độc giả)
(
link Diễn đàn BBC:
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/
hoặc BBCVietnamese
Search )
+++
Tạp chí điện tử Giao Điểm, tháng 3
HB6 [ 2006 ]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_txa-dadang.htm
cũng là bài viết trên của TXA.;
và bài trao đổi
với TXA. của Nguyễn [Sài G̣n]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_ykien-nguyen.htm
bài trao đổi của Trần
Nguyễn Dụng [TP. HCM.]:
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_I06/306_ykien-2parties.htm
( hết )
Bổ sung tư liệu tham khảo (ngày 20-04 HB6
[ 2006 ]):
Phụ lục 3 về nhân vật lịch sử LÊ DUẨN