TRẦN
XUÂN AN
m ù
a
h è
b
ê n
s
ô n g
(nỗi đau hậu chiến)
tiểu thuyết
nnhà
xuất bản
1997 & 2003
CHƯƠNG V
1
Chiều hôm qua, một trận
mưa rào tuôn xối xả. Mưa rào mùa hè ở Quảng Trị cũng ào ạt trút nước như ở
trong Nam. Nhưng hầu như cơn mưa nào ở đây, vào mấy tháng nóng nực nắng,
gió lửa, cũng đều có sấm chớp, và trời lại thường đổ mưa vào lúc xế trưa
ngả chiều. Hiền Lương mỉm cười nh́n mưa, nhớ Thủ Dầu Một, nhớ Sài G̣n.
Đúng là trong ấy không có mùa, hay chỉ mỗi một mùa hè quanh năm nắng rực
rỡ, và vào những tháng này, cũng mưa chiều ào ào xối xả thế này, có điều
ít sấm sét hơn. Những hạt mưa trắng! Hiền Lương nghe thím Cận nói chiều
qua: “Mưa như cơm đổ, muối trút” - trắng và trắng, trắng xóa. Có lẽ đó là
những trận mưa no ấm chăng. Trước trận mưa, đất khô khốc, ruộng nứt nẻ đến
đứt cả rễ lúa, giếng cạn, mỗi gàu nước múc lên đều có cát đáy giếng. Giờ
đây tiếng sấm sẽ làm xanh lúa, xanh phới lên, và mưa hào phóng của mùa hè
đă làm đất lành lại, giếng thôi cạn ḷng.
Hiền Lương, sáng nay,
vừa đi vừa mỉm cười.
Sao cô cứ mỉm cười hoài,
Hiền Lương chẳng biết. Cô cũng chả hiểu v́ sao ít nhớ nhà đến thế. Mỗi đêm,
trước khi ngủ, có nhớ đấy, nhưng rồi cô lại mê mệt trong giấc rất say, mặc
dù gió nồm nhiều khi tới khuya mới từ biển thổi về. Có lẽ, về đây, có
nhiều cái hay, và Hiền Lương đi hoài, vẽ hoài, như trong cơn mê sáng tạo.
Có lẽ, về đây, gặp quá nhiều điều để suy nghĩ đến nỗi cô đành phải ghi
chép, chưa kịp xới lật, đào sâu tất cả.
Cây lá ven đường như
sống bừng lên trong nắng sớm nay và hơi mưa chiều qua c̣n vương lại. Hành
bước bên Hiền Lương. Anh quay mặt sang nh́n cô, nói khẽ:
- Như hôm trước lên chùa,
mong hôm nay Hiền Lương sẽ gặt hái được nhiều điều, chính anh cũng sẽ bất
ngờ.
- Không dám đâu! Anh
giúp em th́ có. - Hiền Lương cười.
- Hôm nay, ḿnh sẽ gặp
ông Nộp, một nhân vật có đến tám mươi lăm năm trong thế kỉ này.
- Em đă gặp, hôm đám giỗ.
Trước đó em có đi vội lên đ́nh mời ông ấy, nhưng do bỡ ngỡ và vội quá, nên
chưa kịp hiểu ǵ.
- Ông ấy là chú ruột của
thím Cận, đă làm từ giữ đ́nh từ năm bảy mấy, tám mươi ǵ đó. Hồi anh mới
học cấp hai, thường đến chơi với ông Nộp, đi cùng cháu ngoại của ông, học
với anh một lớp.
- Nhưng cái đ́nh để thờ
ǵ, anh Hành? Em dốt lắm. Hầu như ở thành phố, cho dù nội hay ngoại thành,
cái đ́nh vẫn có, nhưng chẳng mấy ư nghĩa. Bọn em cảm thấy cái đ́nh như một
h́nh ảnh lỗi thời của quá khứ. Ngược lại, đâu đâu cũng chùa, cũng nhà thờ,
thánh thất của tôn giáo, và nhà nguyện nữa chứ.
- Nếu vậy, cũng lạ.
Nhưng thật ra, bọn anh ở ngoài này cũng mới t́m hiểu đây thôi. Trước đây,
cách đây khoảng vài năm, c̣n rẻ rúng. Chúng ḿnh bậy thật, nếu Hiền Lương
nói thành thật. - Giọng Hành bỗng chùng xuống, lại trở nên cứng hẳn đi -.
Bậy thật! Chỉ người lớn tuổi c̣n lưu giữ được nhiều điều.
Hai người lặng im, bước
chậm trên đường làng. Mỗi người đều cảm thấy có lỗi. Bao giờ sự vô tâm,
thiếu sót trong nhận thức cũng làm người ta đâm ra giận ḿnh.
Cũng như chùa, đ́nh cũng
mới xây dựng lại, trên một cuộc đất ít bị ngập lụt nhất vào mùa mưa băo.
Những năm lụt thật lớn, nước bạc - gọi thế, v́ đục màu bùn non - mới dâng
lên khỏa tràn nền đ́nh làng. Đ́nh trông ra cánh đồng đang xanh những dảnh
mạ non mới cấy.
Bờ thành bao quanh mặt
trước lẫn hai bên khuôn viên của đ́nh. Có ba cửa ra vào. Ba cửa ấy trổ
ngay mặt tiền. Bước vào cửa phụ một bên, Hành và Hiền Lương đứng lại, nh́n
hai cây bàng khoảng hai mươi tuổi xanh những tầng lá. Có trái vàng đang
chín trên cây. Sau hai cây bàng là bức b́nh phong khá dài, che hết bề rộng
của ngôi đ́nh. Đ́nh cũng kiến trúc theo kiểu nhà rường, kèo cột bằng gỗ,
rộng năm gian, chung quanh xây tường vách gạch. Nhưng đúng hơn phải gọi là
dài năm gian, v́ đ́nh dựng theo chiều dọc. Một đầu hồi và chái trở thành
mặt tiền với những trang trí c̣n sơ sài.
- Chùa ngang, đ́nh dọc.
- Hành nói khẽ.
Đ́nh vắng hoe, nhưng dấu
chổi chà quét sân c̣n mới, có thể thấy rất rơ v́ đất c̣n ướt sau cơn mưa
lớn chiều qua.
- Có lẽ ông Nộp mới đi
vắng đâu đây. - Hành nhận xét -. Chắc chắn sẽ có đứa chắt của ông ấy bên
trong.
Một cậu con trai cỡ mười
sáu, mười bảy tuổi đang bước ra, giật ḿnh thấy khách.
- Thưa thầy, - Cậu học
sinh hơi lúng túng -, thưa cô. - Rồi khẽ cúi đầu chào.
Hành và Hiền Lương gật
đầu chào lại. Hành hỏi:
- Có cố ở trong không,
Lâm?
- Dạ thưa thầy, cố em
mới về nhà ba em hồi sớm, nên nhờ em lên ngó chừng, giữ đ́nh.
- Tiếc quá! Hiền Lương
buột miệng.
Cậu con trai tên Lâm,
học tṛ của Hành ở trường huyện, khẽ quay người mời hai người vào trong.
Phía sau đ́nh, cuối một
khoảnh đất rộng đang trồng mè (vừng) và khoai lang, ớt và cà, là một mái
tranh thấp nhỏ, nhưng bốn chung quanh không phải phên tre trát phân trâu
mà vách xây chưa quét vôi.
- Kính mời thầy cô vào
nhà uống nước đă. Có lẽ cố em sẽ về ngay thôi.
Hành nghĩ, ông Nộp sang
nhờ chắt qua giữ đ́nh, hẳn đi đâu xa, có lẽ chưa về sáng nay. Lâm nói thế,
v́ chỉ muốn giữ khách lại chăng.
2
Hiền Lương nh́n ra phía
hậu của đ́nh, thấy c̣n chất nhiều gạch chưa xây, và khá nhiều ngói. Nhà
của ông từ lọt thỏm cuối khoảnh đất sau của đ́nh. Trước nhà, những luống
đất đang trong vụ trồng tỉa. Hai bên hông đ́nh, đất cũng được canh tác hoa
màu phụ. Khung cảnh xanh ngắt, mát mắt quá.
- Cố trồng hay em trồng
vậy Lâm? - Hiền Lương tỏ ra thân thiện.
- Dạ, bọn em là chính.
Cố già rồi, năm nay đă tám mươi lăm tuổi. Nhưng cố... điều hành. - Lâm t́m
chữ, và cười -. Nhưng cố vẫn chống nạng xớt cỏ được. Cố c̣n khỏe lắm.
- Chắc phải sống qua thế
kỉ hai mốt. - Hành cười, nói.
- Thật hiếm có người già
khỏe vậy. Chắc ngày xưa phải là đô lực sĩ có hạng, Lâm nhỉ? - Hiền Lương
nh́n Lâm.
- Dạ, em không biết. -
Lâm thật thà -. Em nghĩ cố khỏe là nhờ trời. Nếu không bị thương ở chân,
chắc cố c̣n khỏe nữa.
Cả ba cùng cười.
- Kính mời thầy cô dùng
nước kẻo nguội.
- Để nguội một chút, cảm
ơn Lâm. - Khẽ quay sang Hành, Hiền Lương hỏi -. Người Quảng Trị ḿnh thích
ăn ớt cay, nước th́ uống nóng, hay thật?
- Chẳng hiểu v́ răng như
rứa. - Hành cười - . Nóng là một vị.
- V́ nghèo! - Một giọng
ồm ồm ngoài vách.
Hành hơi giật ḿnh và
ngạc nhiên, không ngờ sức nghe của đôi tai ông Nộp có khi c̣n rơ đến vậy.
Cả ba ngoái nh́n lại,
ông Nộp đang dựng xe, chống nạng bước vào, cười thật lớn:
- Xin chào thầy Hành và
cô! - Ông Nộp ngồi xuống chiếc ghế c̣n lại.
- Kính chào ông! - Hiền
Lương thưa.
- Ông đạp xe đi có việc
về. Việc chi sớm rứa thưa ông? - Hành bắt chuyện.
- Đi thăm sư Tâm Tự,
tặng ông sư chút hạt giống rau muống khô trái vụ.
Ông uống hết chén nước
Hiền Lương mới rót.
- Tôi nghe sư Tâm Tự nói,
cô Hiền Lương con gái chú Nông ra thăm, muốn vẽ một số tranh về người và
cảnh làng ḿnh?
- Dạ. Cháu chắt ở xa,
muốn được thưa chuyện với ông, xin được vẽ ông. Xin ông cho phép.
Ông Nộp hơi trầm ngâm.
Ông nh́n Hiền Lương.
- Tôi cũng sắp về với
ông bà, nếu được cháu Hiền Lương vẽ cho th́ hay. Chắc vẽ truyền thần giữ
được lâu hơn ảnh chụp.
Hiền Lương bối rối:
- Dạ không. Cháu không
vẽ truyền thần kiểu đó. Cháu thích vẽ một cuộc đời, chiều sâu cuộc đời đó.
Hành giải thích thêm cho
ông Nộp, giọng lễ phép nhưng vẫn lớn v́ ông thường hơi nặng tai. Hiền
Lương mỉm cười. Nét mặt ông Nộp dần dần sa xuống buồn rầu, ngượng ngùng.
Cô thấy ái ngại quá, trách ḿnh sao để hớ ư định. Có lẽ, bởi thấy ông vui
vẻ, khỏe mạnh, khá hoạt bát nữa, nên nghĩ ông chẳng có ǵ buồn và ngượng
như thế.
Lát sau, xua một thoáng
không khí nặng nề, ông nói:
- Vẽ kiểu ấy, tôi chưa
nghe ai nói. Tôi nói thật, tôi dốt nát và bậy bạ cả đời ḿnh, chẳng có chi
đáng vẽ. - Giọng ông Nộp hơi cứng lại, môi hơi run run.
Cả khuôn mặt ông tối sầm.
- Xin lỗi ông. Nếu ông
không đồng ư, cháu xin thôi - Hiền Lương nói vội.
Ông Nộp nh́n Hiền Lương,
tia nh́n lành lạnh và u tối. Như nén một nỗi ǵ nhức nhối trong ngực, ông
thở dài, gắng ḱm lại không để buông thành tiếng. Ông cúi đầu xuống, vầng
trán hói nhăn những nếp hằn, tay lùa vào mớ tóc c̣n lại trắng bạc quanh
đỉnh đầu, khuỷu chống trên bàn. Những ngón tay nhăn nheo, to bẫm, lốm đốm
đồi mồi. Hiền Lương nghe gai ốc rợn lên trên da ḿnh với một cảm giác ân
hận. Cô định ra hiệu bằng mắt cho Hành để xin kiếu về, v́ sợ sẽ chạm vào
nỗi đau quá lớn của đời ông. Bất ngờ, ông ngẩng phắt mặt lên, nh́n vào
Hành, rồi từ từ đưa mắt sang Hiền Lương.
- Nhưng như rứa th́ cháu
vẽ để làm ǵ? Làm răng vẽ được một cuộc đời? Tôi dốt nát. Cháu Hành đă
giải thích. Nhưng e rằng làm răng một khoảnh khắc với một nét mặt nào đó
lại hiện ra cả cuộc đời của một con người được! - Ông nói liền một hơi -.
Cháu Hiền Lương muốn nghe kể lai lịch tôi, phải không? Một cuộc đời làm
giặc! Ôm chân thực dân Pháp và đế quốc Mỹ! Đấy là cả cuộc đời tôi! Điều đó
tôi đă nghe hàng vạn lần, tôi cũng nói trước công an cải tạo, công an xă
huyện, cả cháu chắt trong nhà hàng trăm, ngàn lần! Chẳng có ǵ để chối căi,
phân bua! Lí lịch, lí lịch hoài! Cứ tra tấn vậy, ác quá!
Ông dừng lại, uống ực
chén nước thứ hai nguội ngắt, Hành đă rót hồi năy. Cả bốn người lặng im,
hầu như bất động trong sững sờ. Ông nh́n Hành, rồi đưa mắt nh́n Hiền Lương:
- Đó là sự thật. Cháu
tôi đi dạy ở trường, nó chửi ông nó suốt năm này qua tháng nọ, dẫu chung
cho loại người như tôi, chứ chẳng riêng tôi. Tôi biết. Bầy chắt tôi cũng
thế, chửi cố chúng, chửi suốt buổi tối học bài, tối này sang tối nọ, cũng
như mẹ nó, ba nó. Tôi nghe. Không sao cả. Có làm, có chịu. Tôi già rồi,
sống nhiều, đi nhiều, biết nhiều. Tôi thấy cái liêm sỉ cuối cùng của con
người ta là rứa đó. Làm, th́ phải chịu. Làm việc nhục, phải chịu nhục.
Không oan ức ǵ cả. Biện minh thêm nhục, và hèn. Bẩn thỉu, gian lận, hay
ǵ đó, gần như thế nếu mở miệng biện minh.
Và ông mệt mỏi thở hắt
ra, bỗng run run cầm chiếc nạng, lại run run cầm chiếc nạng khác, từ từ
đứng dậy. Hành lẫn Hiền Lương lúng túng chưa biết nói sao trước sự già sụm
bất ngờ của ông.
- Hai cháu ngồi chơi.
Tôi mệt quá. - Ông bước vào gian buồng sau chiếc tủ phía phải ngôi nhà nhỏ,
vừa bước vừa cười to, đau đớn.
Hiền Lương chỉ kịp nói
với theo:
- Cháu kính xin lỗi ông.
Cháu không có ư định sỗ sàng thế.
Cô đứng dậy, bước theo
và đứng sững giữa nhà. Mặt cô thảng thốt.
- Phản phong, phản đế,
phản thần! Ông Hiền, chú Học thắng hết cả rồi. Tôi đầu hàng từ mấy chục
năm rồi. - Giọng ông Nộp vọng ra, như tiếng gầm nặng nhọc -. Ngụy tặc th́
cam chịu ngụy tặc.
Hành chỉ biết nói với
gương mặt xanh mét:
- Lâm, em vào với cố đi.
Chúng tôi xin phép ông để về.
Lâm cúi gầm đầu, nói:
- Thỉnh thoảng cố vẫn
rứa, nên cố ở đây một ḿnh, cố đuổi bọn em.
Bất giác Hiền Lương ràn
rụa nước mắt. Cô vội vă bước ra. Hành bước theo.
Mười một giờ sáng, sau
trận mưa chiều qua, đất trời vàng thắm nắng.
Hiền Lương sực nhớ chiếc
cầu vồng cuối cơn mưa ấm ức một chiều nào đó đă xa xăm, trong không khí oi
bức, phía chân trời của Thủ Dầu Một.
3
Hành bước bên Hiền Lương,
trong khi cô đang cố gh́m bước lại. Cô bàng hoàng. Hành cũng nói trong bối
rối:
- Không ngờ ông Nộp c̣n
đau đến vậy!
Hiền Lương lau nước mắt
bằng chiếc khăn tay.
- Anh xin lỗi Hiền Lương.
- Chính em đề nghị anh
đưa đến. Xin lỗi anh Hành.
- Th́ đều có lỗi. - Hành
gượng cười -. Thôi, ḿnh vào thăm đ́nh đi.
Hiền Lương chán nản, mệt
nhọc nhưng vẫn bước.
- Bữa khác... Bây giờ em
thấy ê ẩm trong người quá.
Cô bước ra trước cột trụ
có đèn lồng, ở cạnh trái b́nh phong, ngồi xuống trên vành gạch viền xung
quanh gốc bàng, lại đứng dậy, bước quanh gốc ra phía gần giữa mặt tiền
b́nh phong, ngồi xuống. Cô muốn tránh ánh mắt của ông Nộp, ánh mắt có lẽ
chua chát, đắng cay lắm, có thể đang nh́n theo. Và ánh mắt của Lâm nữa -
đầy vẻ chịu đựng, buồn rầu, như chịu đựng một thiên tai, chẳng biết oán
trách ai ngoài ông trời? - có thể cũng đang nh́n theo. Ông Nộp, đă đành,
và h́nh như đôi khi c̣n giả điếc được. Nhưng Lâm, nó có lỗi ǵ mà phải
chịu đựng, buồn rầu đến cúi gầm đầu đến thế?
Hành cùng ghé xuống ngồi
trên vành gạch. Hành chỉ biết để Hiền Lương nguôi xúc động. Anh buồn rầu
nh́n hai vành gạch quanh hai gốc bàng, có h́nh hai đầu rùa nh́n nhau. Hai
con rùa đội hai cây bàng. Hai cây bàng tỏa tṛn từng tầng lá như hai chiếc
tàn lọng nghinh Thần và chầu Thần. Anh chợt nhớ có người bạn đă bâng quơ
hỏi anh: Hay đó là hai cây phả hệ? Không phải đâu. - Lần đó, Hành đă trả
lời, cảm thấy tiếc là đất đ́nh không đủ để trồng mười lăm cây phả hệ như
thế.
Anh nhắc Hiền Lương đến
chỗ khuất nắng.
- Anh nghĩ ǵ vậy, anh
Hành? - Hiền Lương khẽ hỏi.
- Không, nghĩ ǵ đâu.
Làng này có đến mười lăm họ tộc. Đ́nh làng là nơi thờ mười lăm vị khai
canh lập ấp đứng đầu mười lăm họ tộc, và những ai đă cùng các vị đến đây
lần đầu tiên, thường là người trong họ, trong gia đ́nh. Mỗi họ tộc có một
nhà thờ họ để quy hướng tâm linh theo huyết thống. Mỗi gia đ́nh chỉ cúng
giỗ ba đời trước gia chủ. Chẳng hạn như con cái của Lâm sẽ hết cúng giỗ
ông Nộp rồi nếu ông ấy mất, mà sẽ gửi tên tuổi vào tộc miếu họ Phan. -
Hành thấy có ǵ tàn nhẫn khi ví dụ như vậy, anh nói nhanh để khỏa lấp -.
Mười lăm họ tộc sẽ quy hướng tâm linh theo cộng đồng hương ấp truyền thống
vào đ́nh làng. Mọi đ́nh làng trên khắp cả nước sẽ quy hướng tâm linh về
Đền Hùng ở Phú Thọ. Đ́nh làng cũng như nhà rông các buôn, bản miền núi,
thượng du. Hi vọng tháp Chàm và nhà ǵ đó ở các phum, sóc cũng vậy. Có một
sự quy hướng như thế về tâm linh để thắt chặt một đại gia đ́nh các nhân
tộc trên Tổ quốc. Nhân tộc, tức là tộc người.
- Có hệ thống quá. Anh
Hành giỏi thật! Một truyền thống như thế mà sao không học trong trường học
nhỉ!
- Truyền thống sờ sờ ra
đó, nhưng rồi đất nước bận chiến tranh, thêm bệnh “ấu trĩ “tả” khuynh” nữa.
“Tả” khuynh là một thứ bệnh làm xói ṃn đáng kể! - Hành cười chua chát. -
Cực hữu, phải nẩy sinh cực tả, vậy đó.
Anh nh́n lên nóc đ́nh,
tầm mắt vượt qua đỉnh b́nh phong, thấy một đôi rồng đang leo trên hai mép
đầu hồi, cùng nâng một quả tṛn âm dương, ngày xưa gọi là “lưỡng long chầu
nguyệt”. Hành nhớ đến sư Tâm Tự, nghĩ ngôi đ́nh làng cũng sẽ rất hiện đại
và cổ kính...
- Ấu trĩ là con nít, khờ
dại, thậm chí là ngu ngốc. Nhưng “ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần”, không,
phải khốn nữa kia mới khôn ra, trưởng thành. Ngày xưa, bệnh “ấu trĩ “tả”
khuynh” kinh khủng lắm. Ngày xưa, người ta chống cộng sản cũng phải, v́
bệnh “quá tả” phủ nhận sạch trơn sạch trụi di sản tâm linh, thánh hiền,
Chúa, Phật. Mọi thứ tượng, mọi đ́nh đền miếu vũ, nhà thờ, chùa chiền, kể
cả Khổng miếu, đều bị đập phá tuốt. Ở Liên Xô, ở Trung Quốc, và ngoài Bắc,
nhất là ở Trung Quốc thời Đại Cách mạng Văn hóa... đều “ấu trĩ” như thế.
Tất nhiên là vô lí, là điên cuồng. Nhưng trong cái vô lí, điên cuồng ấy có
cái lí của nó.
Hiền Lương cười:
- Báo chí dạo Đổi mới
này nói nhiều lắm. Em có đọc. Nhưng cái đ́nh kia.
- Ừ, th́ vậy đó. Thật ra,
đ́nh làng c̣n thờ Thần, thờ Thành hoàng nữa. Thần theo tín ngưỡng dân gian,
có thể là mê tín. Thành hoàng phải là các danh nhân lịch sử dân tộc, địa
phương. Danh nhân? Đúng. Cùng các danh nhân, có cả những tấm gương sáng về
đạo đức như hiếu thảo, vượt qua, vượt lên thân phận tật nguyền chẳng hạn.
Theo hệ thống: Thần, Thành hoàng (người trần phàm trở thành danh nhân),
danh nhân (bậc dưới danh nhân được phong làm Thành hoàng), gương sáng. Hệ
thống khác: các vị khai canh của các tộc, những người có công với làng,
xưa và nay. Đ́nh là pho sử biên niên sinh động của làng và nước... Thật ra,
nên gộp thành một hệ thống.
- Có hữu khuynh không? -
Hiền Lương cười, hỏi.
- Mê tín th́ thôi. Nhưng
thờ Thần quy hướng vào đ́nh là được rồi. Các phiếm thần bái vật giáo: Thần
Cây đa, Thần Cá ông... th́ thôi... Thần, nói chung là Trời đất, Non sông
Làng nước.
Hiền Lương mỉm cười.
- Anh nói nghiêm túc,
thành khẩn đấy. Phải quy hướng tâm linh các cộng đồng nhân tộc, làng ấp
trên Tổ quốc. - Anh chợt nhớ đến ông Hiền với cụm h́nh tượng bằng chè
kiểng của ông, trong một thoáng bâng khuâng, rồi Hành lại mỉm cười -. Em
thấy cái đ́nh, Đền Hùng (ở Phú Thọ) và Đền thờ Tổ quốc Việt Nam (trên đỉnh
đèo Hải Vân, sẽ thờ Tổ vua Chăm khai quốc, Tổ vua Thủy Chân Lạp, các Tổ
của các nhân tộc thượng du với vua Hùng) là hay chứ? Và Trời, đấy chính là
Hồn thiêng Sông núi.
Hiền Lương vẫn giữ nụ
cười năy giờ, nụ cười của một người chăm chú lắng nghe. Cô nói khẽ:
- Vậy là có gạn lọc, gạn
đục khơi trong truyền thống, lại có cách tân! Chắc chắn không c̣n hủ tục
“xôi thịt”, “chiếu trên chiếu dưới” cách bức?
- Quy luật phát triển!
Tất nhiên có đào thải, có bổ sung, chỉnh lí, sáng tạo, cách tân. Quy luật!
- Hành nhấn mạnh -. Quy luật! Và tiến bộ, văn minh! Hiền Lương đồng ư
không?
Hiền Lương cũng nói:
Vâng, quy luật phát triển! Rồi cả hai cùng mỉm cười trong niềm xúc động.
Bóng râm tán bàng đă
tṛn lại dưới gốc, hơi ngả về phía bức b́nh phong. Cả hai mải mê chuyện
văn, chợt thấy đă trưa lắm rồi.
Phía cánh đồng, lúa hè
thu xanh trong lấp loáng nước.
- Trưa rồi, anh em ḿnh
về chứ?
- Thật tội ông Nộp. Dẫu
sao, cũng đáng trách và đáng thương, và cũng cần phải cảm thông. Nhưng
lịch sử là lịch sử. Đấy là khoa học khách quan. Khoa học lịch sử, đấy là
công lí, là ṭa án, là pháp đ́nh. Biết làm sao được! Cũng như ṭa án,
không công minh sẽ nguy hại trước mắt, di hại về sau, ảnh hưởng đến sự tồn
vong của dân tộc, Đất nước. Có thể ngụy biện cho các vị quan thời Bắc
thuộc ngàn năm được không? cho Trần Ích Tắc, Hồ Quư Ly được không? cho Tôn
Thọ Tường được không? cho Dục Đức, Hiệp Ḥa, Trần Tiễn Thành, Tuy Lư vương,
Hồng Hưu, Nguyễn Hữu Độ, Đồng Khánh, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải được
không? Và cũng không thể ngụy biện cho Tạ Văn Phụng, Trương Vĩnh Kư,
Nguyễn Trường Tộ, Diệm và Thiệu! Giả định một cách nêu vấn đề như thế đă
là không ổn! Thậm chí, là xúc phạm đến danh dự Tổ quốc! - Giọng Hành vẫn
từ tốn, chợt dịu lại, thấy ḿnh đẩy vấn đề đi khá xa như thể đang trượt
vào nỗi buồn giận -. Biết làm sao được! Nhưng bây giờ, ta vẫn quư mến ông
Nộp như một con người, một người có tuổi tác.
Hiền Lương không nói ǵ.
Mỗi người hăy chịu trách nhiệm về chính ḿnh trước xóm làng và dân tộc,
trước cuộc đời và thời gian. - Cô nghĩ vậy.
4
Quăng thời gian bảy năm
trai tráng của Nộp ở dinh quan phủ khởi đầu bằng vụ lí trưởng mất một con
chó Tây, kết thúc bởi một cái bạt tai vào mặt cậu ấm. Bây giờ, đă hai mươi
lăm tuổi, Nộp ôm bọc áo quần với mấy đồng tiền c̣m buộc quanh lưng quần,
lủi thủi về làng. Nộp buồn và nhục, nhưng tận trong thâm tâm, Nộp cảm thấy
mừng.
Nộp c̣n nhớ, lúc thiên
hạ đang rỉ tai nhau về vụ hành quyết ông Nguyễn Thái Học, và Xô-viết Nghệ
- Tĩnh, một cuộc khởi nghĩa, bị d́m trong máu, cũng là lúc Nộp bị lí
trưởng đ̣i lên hầu.
Lí trưởng vốn là con của
một phú nông trong làng, đă ra riêng trong một ngôi nhà ngói, gỗ mít, mua
trên Cùa về cất, và đă được một hàm cửu phẩm. Nhà th́ đă đành, đến hàm
cũng nhờ tiền mua mà có. Lí trưởng nh́n Nộp đang cúi người thật thấp để
lạy chào, đang lom khom đứng khép nép. Lạy, lom khom, khép nép trước mặt
quan lớn quan bé, ấy là lễ. Nộp đâu dám vô lễ dẫu đấy là cái lễ ḱ quặc.
Và nét mặt phải tỏ ra sợ sệt nữa, không th́ lỗi phép.
- Nộp! - Lí trưởng gọi
-. Phan Nộp!
- Dạ, bẩm ông lí, có con
đến hầu. - Nộp thưa, mặt tỏ ra sợ hăi gấp mười lần nỗi sợ trong ḷng cho
lí trưởng sướng bụng.
- Có phải mi thịt con
chó bẹc-giê của tau (tao) không?
Nộp hăi hùng thật, quỳ
sụp xuống, lạy không nghỉ tay.
- Dạ, bẩm ông, con có mô
(đâu) mà ngu dại hỗn hào rứa!
- Nộp!
- Dạ, bẩm ông...
Lí trưởng quắc mắt,
nhưng đă hơi bán tín bán nghi. Con chó Tây lí mua được, khá nhiều tiền chứ
chẳng đùa, nuôi cho sang thêm ngôi nhà ngói gỗ mít vùng Cùa nổi tiếng,
bóng lộn, vàng rực. Con chó bỗng dưng mất, lí đau điếng. Nhưng biết ai
tṛng tḥng lọng hay đánh chết? Lí trưởng đă khảo mười lăm đứa, đứa nào
cũng chối bai bải. Lí nghĩ, đứa nào đó phải khỏe lắm, gan lắm.
Ngồi nghĩ một hồi, bực
quá, cũng thương Nộp bao nhiêu năm giữ trâu cho cha ḿnh, hiền và chăm,
lại cũng biết lễ, biết phép.
- Nộp, tau tức cái
chuyện ni lắm. Mi mà chợn (giỡn) mặt th́ chết. Để rồi tau sẽ t́m ra.
Nhưng, nghe đây. Nộp!
- Dạ, bẩm ông lí. Không
dám chợn mặt ông lí, khôông gian xảo, con nỏ dám bắt trộm như rứa. - Nộp
lạy lấy, lạy để.
- Thôi! Gác chuyện đó
lại. Nhưng mi phải đi lính. Quan lớn trên phủ mới cho trát về đây. Mười
đứa.
Nộp nghe được tha chuyện
trộm chó, mặc dù không trộm, cũng mừng, lại bàng hoàng về việc phải đi
lính. Ông lí đă bảo, làm sao mà căi! - Nộp nghĩ -. Lính th́ lính, cũng đi
kẻo mang họa.
- Dạ, ông lí bảo răng,
con nghe rứa.
Nghe dặn ḍ một lúc, Nộp
được ông lí cho về. Ra về, dọc đường Nộp nghĩ, thằng lí trưởng này hơn
ḿnh mấy tuổi đâu mà c̣n hơn thành hoàng trong đ́nh. Đ.m., ỷ thế cha!
Không biết đi lính ǵ, khố vàng, khố xanh, khố đỏ? Đi lính khố đỏ về, hết
thằng nào hống hách! Đ.m., ỷ thế nhà giàu! Con con ông ông con c.!
Nhưng Nộp không được như
ư. Nộp chỉ được đi lính dơng hầu quan phủ và gác dinh quan.
Thế là Nộp giă từ mẹ già,
những anh, những chị đă có vợ, có chồng, đă ở riêng hoặc c̣n ở chung một
nhà, giă từ mười tám năm lăn lê, vọc đất, mút tay trùn trụt, rồi đi mót
khoai, rồi đi giữ trâu cho cụ lí cựu, đi gặt thuê cày mướn. Nộp giă từ
mười tám tuổi.
Một sáng sớm, Nộp cảm
thấy mừng thầm, bởi sau khi gạt nước mắt, chào mẹ, chào anh chị, các cháu,
là trời hửng nắng. Người ta thường bảo: Ra đi khi trời hửng nắng trong mùa
đông lạnh nhức xương là điềm lành (!). Nộp vừa đi vừa cầu khấn, mong được
quan yêu bạn chuộng cho đời bớt khổ. Và Nộp cùng chín thanh niên trai
tráng khác theo chân lí trưởng lên dinh quan. Đúng ra, phải gọi là vô,
nhưng chẳng hiểu có phải người ta nghĩ đến chiều cao của quyền lực không,
chỉ dám gọi là lên, lên dinh. Dinh c̣n có nghĩa là phủ lị nữa!
Nộp vốn là đứa bé thông
minh, là chàng trai linh lợi. Nộp thuộc loại khôn nữa, khôn theo dạng cho
dù bất măn với kẻ quyền uy, giàu có mấy, cũng nuốt vào ḷng, ngậm miệng.
Nhưng sinh ra trong cửa nhà nghèo, đông con, thuộc hạng cùng đinh, Nộp
chưa hề được đi học buổi nào. Nộp học lóm, nghe thầy đồ giảng sách, nhớ
như in. Nộp hiểu sách trang được, câu mất nhưng chữ th́ viết bậy. Nghe Nộp
nói, có người ngỡ Nộp có học! Và với óc thông minh, tính nết linh lợi,
khôn ngoan kiểu nhẫn nhục, Nộp được quan yêu bạn chuộng thật! Gần quan,
xách khay bưng tráp, sau một thời gian gác cổng suốt một năm, Nộp học lóm
cũng khá nhiều câu chữ, nghĩa lí ở đời và về trời đất. Quan cũng yên tâm
v́ Nộp mù chữ gần như mù đặc.
Suốt bảy năm làm lính
dơng, đôi lúc Nộp cũng tủi phận, hận đời vu vơ, v́ thấy nhiều kẻ có chữ vô
ra hầu quan, trí óc chậm lụt lắm. Ngu mà may, có thế có của, nên họ vinh
hiển. Rồi thấy quan phủ hầu quan Tây chẳng khác ǵ Nộp hầu ông lí trưởng,
Nộp hiểu rơ nhục lớn là quan cai trị hống hách, nhục bé là dân. Chuyện
thánh hiền hóa ra vô nghĩa. Nộp cũng đă nghe phong thanh chuyện Văn thân
Nghệ - Tĩnh, Cần vương, hai cụ Phan, rồi Đội Cấn, Đội Cung - vốn là lính
thuộc Pháp làm binh biến v́ yêu nước thương ṇi - nên đôi khi tức ḿnh
toan làm một việc chi cho ra con người rồi chết cũng đành. Sống thế này,
nhục chồng lên nhục, con người chẳng ra con người! Nộp lại nghĩ, nếu manh
động, chỉ như chiếc pháo chuột, tạch một phát đánh động, hoặc như quả bom,
nổ ầm, rơ là có ích, như Phạm Hồng Thái, nhưng... chịu nhục, yên thân!
Ḿnh lại dốt đặc cán mai, vận động người khởi nghĩa như Phan Đ́nh Phùng,
Hoàng Hoa Thám, ai nghe! Dốt và hơi hèn, quen chịu nhục từ nhỏ, Nộp sống
yên ổn, cũng rất được quan yêu bạn chuộng. Những ư nghĩ khởi nghĩa, cách
mạng chỉ là âm vang của thời đại dội vào ngực Nộp, dẫu có ngân lên, rồi
chỉ là bâng quơ gió thoảng.
Một hôm, Nộp theo quan
lên hầu Tây, khay và tráp lễ mễ bưng xách, gặp lúc vợ chồng con cái Tây
đang quây quần đánh cờ. Bất chợt, một thằng nhóc tóc vàng mắt xanh hờn dỗi
ném mất quân cờ, buộc ḷng Nộp phải cúi người chống tay t́m. Thằng Tây con
thấy vậy, đá đít Nộp, nói tiếng Việt: “con lợn”. Nộp nín thinh tiếp tục ḅ
t́m con cờ. Được thể, v́ nhiều tiếng cười vang lên, như tán thưởng, thằng
Tây con lại đá đít Nộp, nói: “con lợn An-nam-mít!”. Quan phủ tím mặt, hết
cười. Nộp đứng dậy, tát một phát vào má thằng Tây con, nhưng cái sợ, cái
hèn kéo rụt, nhẹ tay lại, nên cái tát khá hơn cái vuốt yêu chút đỉnh.
Thằng Tây con khóc ầm lên. Thế là Nộp tỉnh người, quỳ sụp, lạy như tế sao.
Và khi về lại phủ, Nộp
chỉ bị vài hèo, rồi phải khăn gói về quê. Nộp ân hận v́ lỡ tát như tát yêu
cậu ấm Tây. May quan phủ thương bảy năm hầu hạ, không cũng tù rũ xương.
Nộp buồn và nhục. Nhưng cũng mừng, cơ hồ như được giải thoát. Đ.m., thằng
Tây con, cũng con ỷ thế cha!
Thế là đă hai mươi lăm
năm nghèo hèn, nhục nhằn, vô nghĩa.
5
Về lại làng quê bên bờ
sông Bến Hải, Nộp chợt thấy ḿnh thuộc loại muộn vợ. Ngày ấy, cuối những
năm ba mươi, trai tráng lấy vợ sớm lắm. Th́ lấy vợ! - Nộp trả lời với mẹ
như thế. Cũng may là mẹ đă chọn sẵn vợ cho Nộp rồi. Đó là một cô gái làng
lớn hơn Nộp ba, bốn tuổi, đă đi ở đợ cho nhà giàu trong phủ lị từ bé đến
giờ. Đám cưới rất đơn giản, chỉ mâm trầu cặp rượu. Muộn trai c̣n đỡ, muộn
gái phải gả tống gả tháo kẻo thành gái già. Rồi về ở với nhau, vợ Nộp sinh
soành soạch mỗi năm mỗi đứa : Hai trai, một gái. Có vợ con cũng vui, nhưng
cực nhiều hơn. Từ khi bị đuổi về làng, thấm thía lẽ đời, lớn hiếp bé, yếu
chịu nhục trước mạnh, Nộp ngán ngẩm sự đời vô nghĩa lí, ngay cả chuyện vợ
con cũng lười. Nhưng thương mẹ, thương vợ con, Nộp nai lưng làm thuê, cuốc
mướn. Khỏe như Nộp, khỏe nhất làng, ai cũng thích mướn.
Tưởng ngậm ngùi yên đời
khổ sai như thế, lại bị lí trưởng gọi.
- Nộp! Phan Nộp!
- Dạ, bẩm ông lí, có con
đến hầu.
- Mi (mày) phải đi lính
đó. Có lệnh, lần này quan lớn Tây gọi.
- Dạ, bẩm ông lí, con có
vợ, có con, c̣n mẹ già. - Nộp khúm núm, bàng hoàng nói như van.
Nộp không ngờ, lạnh cả
người.
- Trai tráng đi hết rồi.
Mi (mày) có bảy năm thâm niên lính dơng. Quan Tây cần tuyển lính gấp, lại
cần lính phục viên như mi.
Thế là lại theo chân lí
trưởng lên phủ lị đăng lại lính. Và từ đó, Nộp bị canh như tù. Chắc quan
Tây sợ lính trốn. Nộp lại bị lùa xuống tàu thủy vượt biển qua Pháp đánh
phát-xít Đức. Ngày đi, kèn Tây thổi ṭ te, lính mộ rập ràng hô lời thề: Hi
sinh cho mẫu quốc Phú-lăng-sa, nguyện đánh đuổi Đức tặc! Nhưng qua Pháp,
nào được cầm súng cho ra vẻ người lính, Nộp chỉ cầm cuốc, xà beng và xẻng
để đào hầm, giao thông hào, đắp lô cốt. Nộp cũng như một số lính mộ từ các
thuộc địa khác, đa số là da đen, chỉ có “vinh quang” như thế, với một
“vinh quang” nữa là vác đạn, vác súng đại liên cho Tây bắn. Bọn Pháp đánh
giặc cũng cần người ở đợ như Nộp. Nộp cười khậc lên, khi nghĩ thân phận
thằng da vàng vác đạn, đào hầm cho thằng da trắng bảo vệ nước nó, trong
khi chính nước nó xâm lược, đè đầu cưỡi cổ dân nước ḿnh. Mẫu quốc - nước
mẹ. Nước mẹ hồi nào! Bịp bợm, đểu cáng hay láo xược cũng thế.
Suốt bốn năm làm lính nô
lệ, như thể dưới gót La Mă thời trung cổ, Nộp nhớ nhà nhớ nước, tủi nhục ê
chề. Những cú đạp, cú đá bằng giày đinh đau buốt xương, những mắng, những
chưởi đau buốt tim, khiến có người tự tử - da vàng có, da đen có -, nhưng
đa số vẫn sống, vẫn chịu đựng. Bản năng sống như một lực giúp cho con
người chịu đựng khổ nhục. Có lẽ v́ có bản năng sống nên loài người mới ác
được với nhau đến thế. Không có nó, hễ nhục, người ta tự sát rồi c̣n đâu
mà ác! - Nộp nghĩ.
Rồi Đức thua Liên Xô,
thua Mỹ, cùng đồng minh của Mỹ. Bấy giờ trong nước Cách mạng Tháng tám nổ
ra. Măi đến cuối năm bốn mươi sáu, đầu bốn bảy Nộp mới được về nước với
những người Việt đồng hương và đồng số phận.
Trong hai năm hết chiến
tranh, chỉ ở lại dọn dẹp những hoang tàn, đổ nát trên đất Pháp, Nộp có một
kỉ niệm, măi đến tuổi tám mươi lăm lăo Nộp c̣n nhớ.
Một hôm, đang dọn dẹp ở
một xóm lao động bị bọn Đức dội bom, Nộp giúp một việc nhỏ cho cô gái
người Tây mồ côi cha mẹ cũng v́ bọn Đức. Cô ấy người Pháp gốc Do Thái, làm
thợ giặt, nhờ giỏi trốn và nhờ may mắn nên trốn được bọn Đức. Đói, không
nhà cửa, mồ côi, lại thất nghiệp, cô Pháp Do Thái ấy đi làm điếm. Những
buổi sáng, buổi trưa rảnh việc nhà thổ, cô thường quay lại xóm nhà xưa,
nh́n cảnh cũ đă hoang tàn, bưng mặt khóc. Cô ấy thấy có người da vàng đang
dọn dẹp, liều nhờ t́m một kỉ vật dưới đống đổ nát. Đó là ảnh gia đ́nh cô.
Nộp cũng đă nói được, hiểu được chút ít tiếng Pháp “bồi”. Và Nộp t́m được.
Cô điếm Do Thái nh́n bức ảnh, khóc cười như điên, rồi ôm chầm lấy Nộp, cảm
ơn rối rít. Chẳng biết trả ơn bằng ǵ, cô ấy nghĩ ngợi hồi lâu, nh́n chằm
chằm mặt Nộp. Nộp thương quá, chỉ biết há miệng cười, nói không có ǵ ân
nghĩa lắm đâu. Cô Pháp Do Thái mến Nộp, như gặp một người thân yêu nào đó.
- Em muốn đi chơi với
anh.
- Tôi cũng thích cô. -
Nộp nói tiếng Pháp thô, hóa ra sống sượng.
Và sau đó, họ hẹn giờ.
Lúc gặp nhau vào buổi tối, Nộp mới biết cô ấy là gái nhà thổ. Cô ấy cho
Nộp khi một, khi hai cái tích-kê, loại vé vào cửa của nhà thổ. Vé có đề
sẵn tên cô ấy.
Ở đất khách quê người,
lại xứ sở của bọn cướp nước ḿnh, cuộc đời Nộp bỗng như đổi khác, lên
hương, nhất là khi biết cô gái ấy gốc Do Thái. Người con gái bán thân, mất
nước, tổ tiên bỏ nước mà đi, phiêu tán đă gần ngót hai ngh́n năm, với một
anh lính nô lệ bị cưỡng bức xa nước bởi mất nước mấy mươi năm nay, để làm
lao dịch, làm bia đỡ đạn cho bọn cướp nước, họ gặp nhau, yêu nhau thật sự,
trong và ngoài nhà thổ. Không có lối thoát nào, v́ Nộp chẳng thể cứu rỗi
cô ấy khỏi nơi ấy!
Đau đớn và nồng nàn yêu
nhau, nhưng rồi phải ngậm ngùi chia tay khi Nộp phải về nước trong đoàn
quân tái xâm lược nước ḿnh! Ánh mắt trên bến cảng không bao giờ Nộp quên,
xanh biếc rười rượi, đau đớn, nỗi đau tự hai ngh́n năm vời vợi. Và mái tóc
tơ vàng óng ánh ấy nữa, với Nộp, ngỡ như vạt nắng, như toả hương rơm vàng,
mềm mại trong tay Nộp bao lần, đang ngời lên rồi mờ dần trên bến cảng,
nhưng c̣n cháy sáng măi trong tim Nộp. Không bao giờ Nộp quên (dẫu khi đă
đến tuổi tám mươi lăm!).
Ơi đôi mắt biếc xanh
rười rượi! Mái tóc tơ vàng óng ánh! Và rồi, mờ hút rồi, sóng biển và sóng
biển. Những ngày ở trên tàu, nỗi cực khổ, nhục nhằn suốt sáu năm lại cồn
lên, đau ê ẩm, buốt xé. Nộp thầm cảm ơn cô gái Pháp Do Thái mồ côi lạc
loài ấy. Nhưng biết làm sao được, quê hương, Đất nước, Nộp phải về!
Một trong những mối thù
của Nộp, từ đó, là thù nhà thổ. Cũng từ đó, Nộp mê kể truyện Kiều đến
thuộc ḷng!
6
Sau khi Hiền Lương và
Hành về, ông Nộp ngồi dậy, rồi lại nằm xuống. Đă bao lần ông Nộp thấy con
người cần phải sống như thế nào để khi về già, lúc đă chết đi, c̣n một
chút ǵ đó cho người quen kẻ thân khỏi liên lụy, buồn tủi về ḿnh. Nhưng
trước đây đời chẳng cho ông cơ may nào cả. Ông cũng tự trách ḿnh. Sao hồi
thanh niên, ông chả làm cách mạng? Ông thừa biết, bấy giờ, cho dù theo
đảng nào đi nữa, để chống Pháp, th́ cũng vinh quang. Ông thụ động rồi bị
động, bị xô lùa như người ta lùa xô đàn ḅ nô lệ để hết đường trở lại làm
con người xứng đáng con người. Ông thấm thía tự lâu rồi cái gọi là “guồng
máy”. Một xă hội như một “guồng máy”, ông chỉ là con ốc vận hành trong
“guồng máy” ấy. Vô thức hay hữu thức, nó lôi người ta đi, mà đa số, người
ta có kịp suy nghĩ, chọn lựa ǵ đâu. Hết đà lôi của “guồng máy”, cũng tàn
một đời người! Tỉnh lại, đời chẳng c̣n mấy nả, tóc bạc phơ rồi, chẳng làm
sao cứu văn được, không thể và chẳng ai cho cứu văn!
Ông cay đắng nhất là
thời theo chân Pháp về tái xâm lược quê hương, Tổ quốc. Lúc ấy, chạy theo
Việt Minh, chưa chắc đă được chấp nhận, dù ông có “đọc” một vài tờ truyền
đơn binh vận bằng cách nhờ lũ học tṛ đọc giùm, cũng có nghe loa kêu gọi
quay súng trở về với chính nghĩa Việt Minh. Mặt khác, bấy giờ có một
khuynh hướng chính trị thỏa hiệp từ vài chục năm trước c̣n có tác dụng
kiểu như ma túy cho người lầm lỡ. Khuynh hướng thỏa hiệp với thực dân ấy
lại của một danh nhân uy tín ngút trời. Đại để, dựa vào Pháp mà canh tân,
chịu nhục như Hàn Tín để xây dựng Đất nước, hơn là cách mạng, v́ làm cách
mạng, trong điều kiện thực lực nước ḿnh bấy giờ, chỉ thất bại thôi. Tuy
nhiên, đừng hi vọng nhiều, đừng lấy sự dựa vào Pháp làm lâu dài. Phải chấn
dân khí, nâng dân trí đă, đủ lực trong nước đă, rồi quật lại Pháp. Sách
lược thỏa hiệp chỉ thế thôi, nhưng thế là đủ để Nộp yên ḷng, lương tâm
bớt cắn rứt khi cầm súng Bảo an đoàn bảo vệ an ninh cho Pháp, b́nh định
các “đảng giặc”. À, Nộp nghĩ, với khả năng hạn chế của ḿnh: “Bất bạo
động, bạo động dả tất tử; Bất vọng ngoại, vọng ngoại dả tất ngu”, và
ǵ đấy, “Ngă hữu nhất kế kính hiến chư đồng bào, thị chi học”
(II.5). Chẳng biết Nộp có nghe nhầm hay người rỉ tai Nộp nhầm, là vậy.
Đúng, súng ống đâu mà chống Pháp? Nhờ ai, cũng chỉ rước voi giày mả tổ!
Thôi, đành chấp nhận Pháp “bảo hộ” để học, lớp trẻ học, mới tính chuyện
chế được súng, chế được bom, mới đủ lực xây dựng Tổ quốc. À, Nộp nghĩ,
hay, đại chi hay! Thấy lương tâm đỡ đau lắm.
Khi cầm súng thực dân lỡ
đi rồi, người ta có một tâm thế của người lính ngụy, đón nhận luận điệu
trên một cách sung sướng để tự biện minh cho ḿnh, xoa ma túy vào nỗi đau
bị lương tâm cắn rứt, kiểu như Tôn Thọ Tường, Nguyễn Bá Trác, Phạm Quỳnh
và vân vân, cũng để hưởng lạc nữa! Có ai làm quan cho Pháp chỉ v́ dân?
Nói chung, mọi tội phạm
Việt gian, hay các tội phạm khác đều có cách xoa dịu lương tâm và biện hộ
cho ḿnh. Có thể Nộp cũng vậy.
Bọn Pháp cướp bóc, đốt
nhà, hăm hiếp phụ nữ. Nộp thấy, Nộp biết. Nộp đau lắm. Nhưng chịu nhục như
“sách” trên mà! Chấp nhận “con đường cứu nước nhục nhă” mà!
Thế rồi, chia cắt Đất
nước, Nộp trở thành “chiến sĩ cộng ḥa”. Thế là độc lập, tự do, dân chủ
rồi, như Ngô “chí sĩ” (!) trịnh trọng tuyên bố. “Quốc gia đă đến ngày giải
phóng” (!). Nộp hát dưới lá cờ vàng ba que xỏ lá và chân dung Ngô “chí sĩ”,
trào nước mắt. Ôi, Ngô “chí sĩ” (!), Người (!) đă “bao năm từng lê gót nơi
xứ người” để trở về với Mỹ “giải phóng” (!) quê hương, Tổ quốc, và ban cho
Miền Nam thứ tự do “hào phóng” (!) hơn Miền Bắc! Mỹ chỉ là “cố vấn” (!).
Sung sướng, biết ơn biết chừng nào! Ôi, Thượng đế ban phúc lành cho
“Người” (!), cho toàn dân Nam Việt Nam! Không, sẽ ban cho toàn dân Việt
Nam! Sic!
Thế đấy, chút ḷng yêu
nước c̣m cơi trong một thân thể tráng kiện vào bậc nhất thôn làng của Nộp
đă được bồi dưỡng để chống cộng, bảo vệ Thượng đế và tự do! Sic! “Con
đường nhục nhă” đă thắng (!).
Rồi Diệm sụp đổ. Rồi đấu
đá tranh giành các thứ ghế, ghế lớn ghế bé, gái lành gái rách, trên chính
trường Miền Nam giữa các tướng. Rồi Nộp găy chân vào năm một chín sáu tám,
Tết Mậu thân, do một mảnh pháo kích! Truyện Kiều như tấm phao cứu Nộp từ
độ ấy, mặc dù từ độ nào đă yêu, trong niềm đau đớn, ngậm ngùi. Nhờ con
cháu đọc, Nộp càng thuộc ḷng, thuộc cả ba ngàn câu!
Đă lâu rồi, về vườn với
quân hàm thượng sĩ, với cái chân khập khiễng, từ cái Tết Mậu thân ấy, Nộp
có dịp bứt ra khỏi “guồng máy”, lực “lôi cuốn” vô thức và hữu thức, tỉnh
tỉnh mê mê, để ngẫm nghĩ, ngấm đ̣n. Hóa ra, cả một cuộc đời, bị xô đẩy và
bị lừa bịp, tự chạy theo và tự lừa bịp, đă tàn phế rồi!
Biết vậy, ngấm đ̣n đến
vậy, nhưng “guồng máy” Mỹ ngụy c̣n đó, c̣n “lôi cuốn” Nộp, như nghiện,
quen một thói quen, như trót già một nửa đời làm ma cô hoặc làm chính
khách trong một không khí cực ḱ bụi bặm, men cay, người ta không thể rứt
ra được, như ở rừng, quen rừng, về phố, người Thượng ngơ ngác nhớ rừng,
quằn quại nhớ rừng rồi trở về rừng. Nộp biết, Nộp thấm thía hiểu, nhưng cứ
bị “lôi cuốn” trong “guồng máy” như kẻ bị phân thân, bị tha hóa đến mức
vong thân (đánh mất bản chất của chính ḿnh!), mặc dù đă về vườn, đă thành
tàn phế binh!
Đến Ngày Thống nhất bảy
lăm, ông Nộp đă sáu mươi ba tuổi. Chịu khổ từ thuở nhỏ, ông cũng chẳng
phàn nàn ǵ khi ở trại cải tạo sĩ quan và ác ôn ngụy. Chỉ thượng sĩ, nhưng
bị xếp vào loại ác ôn, ông chả hiểu tại sao. Số phận mỗi người đôi khi do
tính nết hay thành kiến của một người nào đó quyết định. Anh cán bộ này
sao ghét Nộp, có thể do nh́n nhầm, nhớ nhầm, hoặc do một định kiến, với kẻ
suốt đời theo giặc th́ tội không tha. Chính sách chung, vận dụng riêng.
Thế là Nộp đành chấp nhận. Nộp tự nhủ, luật nhân quả, bốn năm học tập cải
tạo c̣n nhẹ. Nộp mừng quá khi được phóng thích, nhưng lo vẫn lo. Ông Nộp
về lại làng cũ trong nỗi lo ấy.
Ông Nộp sau này ngẫm lại,
ông mặc cảm lắm. Nhưng, ông nghĩ, ngụy tặc cỡ như ông quá nhiều, khắp cả
Miền Nam, kể cả hàng triệu người Miền Bắc cũng vốn là ngụy tặc di cư vào
Nam từ 1954. Mặc cảm lại vơi đi. Ông lại phóng đại lên, cả Miền Nam đều là
ngụy tặc, đâu riêng mỗi một ḿnh ông! Can chi mặc cảm! Ơ hờ, có chút rượu
vào, ông tự nhủ, hừm, chẳng lẽ nửa nước là ngụy tặc, nửa nước là anh hùng?
Hừm, ơ hờ. Có lí không rứa hè (vậy nhỉ)? Hừm, ông c̣n lạ chi Miền Bắc! Ở
ngoài đó, bọn "phù Lê", "tả đạo" quậy phá suốt cả thời Tự Đức cho đến thời
Hàm Nghi, để nằng nặc rước giặc Pháp "bảo hộ", bọn ngụy tặc như ông suốt
sáu mươi năm (1885 - 1945 - 1954) Pháp thực sự thống trị rồi tái chiếm vẫn
c̣n đầy rẫy, đă vào Nam hết đâu, cho dù có cuộc hoán vị di cư, tập kết hồi
năm tư! Hừm! Ông lại tợp vài ngụm rượu, cười khậc, chua chát một ḿnh.
Thực ra, ông biết, ông
hiểu tận đáy ḷng ông mang mặc cảm ngụy tặc, nhưng cũng t́m cách vuốt ve,
biện hộ, đúng hơn là làm rơ cho ḿnh. Ông biết vin vào sự thật lịch sử, và
hơn thế, ông cảm thấy một khi quá nhiều người phạm tội, tội ấy bỗng nhẹ đi,
thậm chí vô tội! Có như thế, mới c̣n sống được và có thể c̣n thọ lắm.
Nhưng, sáng nay, gặp
Hành với Hiền Lương, bỗng dưng không ḱm được, ông gầm lên đau đớn khóc,
nhưng khô cả nước mắt, v́ tuổi đă già. Trước đây, thỉnh thoảng cũng có
mươi lần ông Nộp đau đớn khóc như thế. Nói chung ông đă vui vẻ sống trong
niềm thông cảm của mọi người, đến mức chẳng cần biện hộ ǵ nữa, nhưng Kiều
đă đánh thức hoài trong ông khát vọng nhân phẩm.
Có vài câu ông Nộp
thường xuyên nói, khi th́ như quát lên cho con cháu, xóm làng nghe, nhưng
không dám quát to, và chỉ quát lúc một ḿnh, thành ra không ai nghe thấy
cả, khi lại lầm thầm một ḿnh như tự nhủ. H́nh như đó là những câu thần
chú cứu khổ cứu nạn cho đời ông: "Phản phong, phản đế, phản thần! Chống
quân chủ, phong kiến; chống thực dân, đế quốc; chống duy tâm, hữu thần!
Tui thua Cách mạng lâu rồi, thua ông Hiền, chú Học lâu rồi. Suốt cả cuộc
đời thằng ngụy Nộp ni theo giặc Pháp, giặc Mỹ thiệt, cũng có chịu lụy cố
đạo "thập ác" cho qua thời, qua buổi thiệt. Bởi v́ theo hai thằng giặc
Pháp, giặc Mỹ nớ cũng như theo hai thằng giặc Nga Sô, giặc Trung Cộng thôi.
Phía mô cũng giặc. Bởi v́ chịu lụy "tả đạo" th́ c̣n đ́nh, c̣n chùa, c̣n lư
hương, bát nước thờ cúng ông bà, tổ tiên, chứ theo Đảng vô thần, giặc vô
thần th́ mất sạch sành sanh, mất nước mất non, ruộng đất th́ chung chạ
sinh bậy bạ, lại mất cả hồn cả vía, ông bà không nhang không khói, lại đặt
mấy thằng mắt xanh mũi lơ với mấy thằng chệt Mác - Lê - Mao trên đầu trên
cổ của cả dân tộc, nhục đến rứa làm răng sống nổi! Xóm làng ai hiểu cho
thằng ngụy Nộp ni th́ hiểu, con cháu đứa mô hiểu cho thằng cha ngụy, thằng
ôông ngụy của bây th́ hiểu".
Mỗi lần quát một ḿnh,
không dám quát to v́ sợ bị tù, mặc dù rất muốn cho xóm làng, cháu con nghe
thấy để thông cảm, hoặc khi lầm thầm trong miệng như niệm thần chú, ông
Nộp thường trào nước mắt, đôi lúc khóc ồ ồ rất thảm. Tuy vậy, cán bộ xă
cũng biết! Có lắm lần chú Tập, bí thư xă, trách ông Nộp già rồi mà c̣n
bệnh ngoan cố! Nhưng chú Tập hiểu đó là nỗi bệnh đâu chỉ riêng ở ông Nộp,
mà của cả một cuộc chiến tranh dài dằng dặc, từ Xô-viết Nghệ - Tĩnh (1930
- 1931) cho đến măi sau này. Chú Tập ôn tồn bảo: "Chừ đ́nh làng, chùa
chiền, ban thờ tổ tiên với lư nhang bát nước, mọi thứ chi của ôông cũng
đều có cả rồi. Rứa mà ôông c̣n nói ri, nói tê, tui không chịu trách nhiệm
mô nghe. Ôông c̣n quát một ḿnh, c̣n lầm bầm trong miệng như rứa nữa, th́
chính ôông phải lên công an huyện để tự chịu trách nhiệm trước pháp luật
đó!". Nói vậy, có điều chú bí thư Đảng uỷ xă cũng biết ông Nộp tuy sai
điểm này, nhưng không phải không đúng điểm nọ, nên chú Tập không khỏi cảm
thấy đau đứt cả ruột. Đau đứt cả ruột, nhưng chú Tập cũng bực bội không
kém. Chú rủa ông Nộp trong bụng: Lăo ngụy cứ ngụy biện!
Có một lần, đau ḷng,
bực óc quá, chú bí thư Đảng uỷ xă định mời ông ngụy Nộp lên trụ sở để đả
thông tư tưởng, nhưng rồi đích thân chú đạp xe đến nhà ông Nộp phía sau
vườn đ́nh làng.
Chú Tập nói cho dù ông
Nộp chối:
- Tui biết ôông quát,
lầm bầm những điều chi rồi. Nhưng ôông với chế độ ngụy đă làm được cái
chi, hay chỉ làm nhục hai chữ Việt Nam? Ôông thử trả lời cho tui rơ: Ai
đánh Pháp thắng lợi? Ai góp phần đánh Nhật thắng lợi? Ai đánh Mỹ thắng lợi?
Ai đánh "tả đạo" thắng lợi? Ai đánh Trung Quốc bành trướng thắng lợi? Ai
đánh Khơ-me Đỏ thắng lợi?
Ông Nộp cúi đầu, đáp,
nhưng không dám nói hết ư nghĩ:
- Dạ, đó là nhờ ơn Cách
mạng của Bác Hồ vĩ đại. Nhưng... Trước đây, rơ nhất là năm 1973, tui chống
Trung Quốc của Bác Mao, v́ Bác Mao xâm lược Hoàng Sa, Trường Sa của ḿnh.
Trước đây tui chống Nga Sô v́ Nga trực trị mười hai nước trong Liên Sô,
gián trị nhiều nước chư hầu ở Đông Âu... Các nước bị Nga Sô trực trị bây
chừ đă tuyên bố độc lập rồi! Đài, báo ở nước ḿnh cũng đă đưa tin, b́nh
luận. Tui là ngụy, dám mô quát, dám mô lầm bầm điều chi trong miệng!
Nghi ngờ sự thành thật
của ông Nộp, nhưng dẫu sao cũng là chuyện đă rồi, nghĩ vậy, và đă chuẩn bị
ư tưởng, chú bí thư xă lại chậm răi nói:
- Ôông trả lời những câu
hỏi của tui đúng, và biết nói "nhờ ơn Cách mạng của Bác Hồ vĩ đại" là được
rồi. Ôông phải biết, Cách mạng của Bác Hồ đă làm nên những chiến thắng
lừng lẫy địa cầu, hiển hách nhất lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc ḿnh!
C̣n những vướng mắc của ôông, tui trả lời cho ôông rơ, là ri đây: Nga Xô,
rồi Liên Xô... - Chú Tập bỏ dở câu nói để giải thích cách phiên âm của hai
miền Nam - Bắc: sô-viết hay xô-viết chi th́ cũng như nhau -. Tui nói lại,
Nga Xô, rồi Liên Xô và Trung Quốc đều có cái bậy của họ, nhưng họ bậy th́
kệ họ, họ giúp Cách mạng chống đủ thứ giặc là tốt rồi. Ôông đồng ư không?
- Dạ thưa, tôi đồng ư,
nhất trí từ lâu rồi.
Đưa ánh mắt ḍ xét với
sự nghi hoặc vào gương mặt nhăn nheo, râu ria bạc trắng của ông Nộp, nhưng
cũng từ lâu rồi chú Tập hiểu rằng không thể thuyết phục người khác bằng
những ǵ bản thân chú cũng rất băn khoăn, đau ḷng, nhức óc. Chú bí thư xă
buột miệng:
- Có phải là ôông sợ cấp
uỷ, chính quyền xă và công an huyện, nên ôông chấp nhận như rứa, chứ trong
bụng ôông nghĩ khác?
Ông Nộp hơi giật ḿnh,
vẻ mặt trở nên âu lo, sợ sệt, lắc đầu quầy quậy:
- Dạ, không... Thật ḷng
tôi đồng ư, nhất trí từ lâu rồi.
Chú Tập cũng chẳng biết
nói ǵ hơn, v́ những điều c̣n lại, ngay chính chú là bí thư nhưng cũng bí
lí. Thật ḷng nhờ chính những ǵ ôông Nộp quát một ḿnh, lầm bầm một ḿnh,
ban an ninh xă ŕnh nghe được, báo cáo lại, chú mới thấy lăo ngụy này
không theo Cách mạng mà theo giặc Pháp, Mỹ, th́ cũng có cái lí của ngụy.
Đặt ảnh tượng mấy thằng mắt xanh mũi lơ với mấy thằng chệt Mác - Lê - Mao
trên đầu trên cổ cả dân tộc là thế nào! Dẹp đ́nh làng, dẹp chùa chiền là
thế nào! Bác Hồ vĩ đại không thờ cúng cha ông, tổ tiên chi cả là thế nào!
C̣n cờ đỏ sao vàng, cũng là cờ Liên Xô trích ra... nữa, là thế nào! Nhưng
quả thật, sự thật phơi bày giữa hiện thực sờ sờ vốn là như thế! Chú Tập
thấy bực óc, đau ḷng thật. Và chú Tập c̣n biết rằng, mấy tay ngụy cũ như
lăo Nộp hiện giờ vẫn c̣n giữ nguyên trong đầu óc luận điệu ấy, lại c̣n kết
án Cách mạng của Bác Hồ, chứ chẳng biết ơn chút nào, thậm chí c̣n oán
trách rằng, nếu Cách mạng của Bác Hồ đừng sùng bái theo kiểu nô lệ các tên
lănh tụ Tây Tàu Mác - Lê - Mao - Xít-ta-lin với lại lốp sốp, lép sép ǵ đó,
uỷ ban cách mạng Nghệ - Tĩnh th́ cứ uỷ ban cách mạng Nghệ - Tĩnh, đừng xô
viết xô vét ǵ đó, nghe sặc mùi lai căn, sặc mùi Nga La Tư, chẳng khác ǵ
bọn rước voi về giày mả tổ, cơng rắn cắn gà nhà Trần Ích Tắc, th́ bọn ngụy
chúng nó chẳng thằng nào đi lính ngụy cả, mà cả nước này đều theo Cách
mạng của Bác Hồ tất thảy, và chiến tranh không kéo dài đến vậy, máu xương
không chất ngất, lênh láng đến vậy. Chú bí thư xă biết rơ, có những tay
ngụy cũ c̣n bảo với nhau: Mấy lăo Cách mạng với lũ ăn theo Cách mạng cần
phải mở mắt ra, nh́n các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh mà xem, để
đối chiếu về sự mất nước của họ, nền độc lập của họ, nền tự do, dân chủ
của họ, chứ mấy lăo Cách mạng đừng ếch ngồi đáy giếng, xem trời bằng vung.
Bọn ngụy láo xược thật! Mặc dù chúng tự thừa nhận chúng là ngụy đích thực,
đành phải theo thực dân Pháp, đế quốc Mỹ thật, chịu lụy "tả đạo" thật,
nhưng lại dám bảo nhau thế đấy về Cách mạng của Bác Hồ! Có những kẻ c̣n
cam đoan chúng chỉ nương theo chiều gió, kiểu nhu đạo, để lợi dụng ngược
bọn Pháp, Mỹ, tả đạo, trước mắt nhằm đối phó với cộng sản vô thần Bắc Việt
và cả với quan thầy của Bắc Việt là Nga Sô, Trung Cộng, sau đó mới quật
lại Pháp, Mỹ, tả đạo! Luận điệu của ngụy là thế! Nhưng lấy cái ǵ để cải
tạo, thuyết phục được bọn ngụy cũ, nếu không bằng sự thật lịch sử và hiện
thực đă chứng kiến, đang ngó thấy? Chẳng lẽ thực tế nhất, hiệu quả nhất
theo kiểu thực dân, đế quốc, phát xít, đó là dùng bạo lực nhà tù, trại cải
tạo, thủ tiêu để trấn áp, khoá miệng? Hay vẫn theo câu "ranh ngôn" nào đó
khá mỉa mai, là chân lí, sự thật lịch sử thuộc về kẻ mạnh, muốn vo tṛn,
bóp méo thế nào là tuỳ? Thế th́ làm thế nào học tập được Nguyễn Trăi: Bệ
hạ làm thế nào cho tận nơi thôn cùng xóm vắng không c̣n tiếng hờn giận,
oán sầu... Tư tưởng và chương tŕnh hành động thân dân, yên dân như thế
mới là gốc của mọi gốc. Ấy là nền tảng của thái b́nh thịnh trị lâu bền và
của chính nghĩa đích thực, sử sách ngh́n thu ca ngợi, hậu thế tự hào.
Nhưng hiện tại làm thế nào theo Nguyễn Trăi nổi? Lê Lợi, và trước đó, Trần
Hưng Đạo, làm nên chiến thắng hiển hách, có cần ngoại viện nào đâu, nịnh
hót lănh tụ nước nào đâu? Ồ, thời thế khác nhau chứ, gươm đao giáo mác cổ
xưa với tên lửa tầm xa, máy bay phản lực, ra đa các thứ tối tân, hiện đại
khác nhau chứ!... Nhưng dẫu sao cũng không nên sùng bái, nịnh hót kiểu tôi
đ̣i như thế, phi truyền thống như thế, gây ra quá nhiều ngộ nhận! Lại c̣n
"giặc vô thần" nữa!
Chẳng lẽ cứ bạo lực và
bạo lực, nhồi sọ và nhồi sọ là ổn tất? Quả thật, chú bí thư Đảng uỷ xă rất
đau ḷng, nhức óc.
Chú Tập định nói bừa,
được cái này mất cái kia, nhưng cũng cảm thấy hơi nhục quốc thể, cái nhục
quốc thể này xưa nay trong lịch sử bốn ngh́n năm chưa có tiền lệ (12)! Chú
đành bấm bụng tránh né vấn đề, chào ông Nộp, lên xe, đạp ra khỏi khuôn
viên đ́nh làng.
Chú Tập dẫu sao cũng c̣n
khá hơn bao cán bộ cách mạng khác, ở chỗ chú c̣n biết suy nghĩ, trăn trở.
C̣n ông ngụy Nộp vốn đă dốt nát, quen thói hèn hạ, lại c̣n bị sự sợ hăi
làm cho ngu muội hơn.
Hôm ấy, khi chú Tập về
rồi, ông Nộp mừng đến trào nước mắt, v́ cứ ngỡ lại phải khăn gói lên công
an huyện để bị đưa đi trại cải tạo một lần nữa. Hôm ấy cũng đă lâu lắm rồi,
ờ, bốn năm rồi, có lẽ...
Ông Nộp nằm trên giường
một ḿnh hồi tưởng. Ông mong Hành và Hiền Lương hiểu cho ông... Ông lại
tiếp tục thao thức nghĩ ngợi...
Từ độ được làm từ giữ
đ́nh làng, ông Nộp thấy đây là ân huệ ông được cuộc đời, được dân làng ban
tặng. Một cơ may ông thử xin, thử xin thôi, mà được, để hương khói cho
Nguồn cội, Tổ tiên. Là một đứa con lầm lỗi, ông chỉ biết chuộc lỗi với
Nguồn cội, Non sông Làng nước bằng cách này. Và mười tám năm nay, ông Nộp
không một phút, một ngày xao lăng. Dân làng rộng ṿng tay với ông như với
Kiều.
7
Mọi người trong nhà đă
ăn cơm tối xong. Hiền Lương dọn mâm chén, lau bàn thật sạch, rồi ra giếng
rửa và giặt. Thím Cận với o con gái mười lăm tuổi áy náy, ái ngại quá,
ngồi nh́n Hiền Lương đang làm, bứt rứt không yên bụng. Chú Cận vừa lắc đầu
vừa cười khà khà, vừa phục cô cháu B́nh Dương vừa không bằng ḷng. Ban đầu
là thế, rồi thấy vậy cũng được, cháu chắt trong nhà cả. Sau lấy chồng để
chồng thương, bây chừ phải tập. - Chú nghĩ thật thà như vậy. Hiền Lương
không thể yên ḷng khi cứ biến ḿnh thành khách, và muốn ḿnh đừng quen
thói quan liêu. Ở Thủ Dầu Một, cô có cặp bao tay khi làm công việc nhà bếp,
như công nhân trong xí nghiệp thủy hải sản đông lạnh, như bác sĩ trong
pḥng mổ, nhưng ở đây, hi sinh da tay chút đỉnh cho chan ḥa. Ba cùng -
cùng ăn, cùng ở, cùng làm - cơ mà! - Cô lại mỉm cười thú vị khi nghĩ thế -
. Phải thấm t́nh ruộng đất.
Xong xuôi đâu vào đấy,
Hiền Lương leo lên giường ngồi nói chuyện với thím Cận. Sau dăm điều ba
chuyện nắng mưa dưa lúa, thấy chú Cận nghe đài, cô bé em họ co chân trên
ghế đọc sách, Hiền Lương nghĩ đă có thể hỏi thăm chuyện đời ông Nộp với
thím Cận. Là cháu ruột của ông, chắc thím biết ít nhiều.
- Chừ (giờ) chú Nộp cũng
đỡ khổ rồi. - Thím nói chậm răi -. Ôông tra (già) rồi, ai làm ǵ ôông nữa!
Trước đây, thời gian chú Nộp c̣n bị quản chế, thỉnh thoảng, năm khi mười
họa, công an huyện có mời ôông lên kể lí lịch. - Thím giải thích thêm -.
Ôông mù chữ xưa chừ. Chỉ chừng nớ thôi, rứa mà ôông nói cách nớ là tra tấn
ôông.
Hiền Lương lắng nghe.
Thím Cận cười, sực nhớ:
- À, quên. Hồi mới đi
cải tạo về lại làng, có thư hai anh con trai của ôông bên Mỹ gửi về, du
kích xă gọi ôông lên nhận. Ôông tưởng phen ni (này) chắc chết. Nhưng rồi
có chi mô. Sau ni, hai eeng tam (anh; tam = em) bên nớ gửi tiền, quà về
luôn.
Hiền Lương thấy thím Cận
nói phải, rứa đă đỡ lắm rồi.
- Ông vẫn c̣n người con
gái duy nhất bên này hở thím?
- C̣n o nớ (cô ấy). Ôông
có chắt ngoại rồi. Kị giỗ, tất cả con cháu ngoại lo. Mệ (bà) th́ chết lâu
rồi.
Hiền Lương thấy bớt
thương ông Nộp một chút. Cô thành thật so sánh ông Nộp với ông Hiền, thấy
ông Hiền nghèo hơn nhiều, nhưng bù lại thanh thản hơn, và ông Hiền c̣n có
niềm tự hào.
- Rứa cháu thăm đ́nh
làng chưa? Mới xây lại đó, thua xưa.
- Dạ, nhưng cháu chưa
vào thắp hương. Chắc mai mốt cháu phải lên thắp.
- Ơ! Về thăm quê nội mà
chưa thắp hương trong đ́nh? Rứa, mang tội chết! Ông bà tổ tiên quở (trách)
chết!
Hiền Lương ngượng ngùng:
- Dạ, lẽ ra sáng hôm qua
cháu đă thắp hương rồi. Nhưng, đến chừ vẫn chưa. - Và cô cười lảng - . Ba
cháu gấp việc, hôm nọ, ổng đi một ḿnh, chắc đă cúng vô quỹ xây dựng.
- Đ́nh là thiêng lắm.
Trước, hồi thím c̣n dỏ (nhỏ), mỗi lần tế lễ, bui (vui) lắm. Chừ gọi là Hội,
Ngày Hội làng. Dịp nớ, có eeng Nguyễn đọc lịch sử làng với nước, có chiếu
phim với đủ các tṛ chơi, khi tế lễ cũng đèn, cũng cờ, áo dài khăn đóng,
trống, chiêng...
- Trong đ́nh chắc đẹp,
thím hè? - Hiền Lương dùng từ địa phương.
Thím Cận mỉm cười, cường
điệu về vẻ uy nghi:
- Sợ. Thím nỏ (không)
dám ḍm (nḥm) lâu. Gươm đao giáo mác hai hàng sáng quắc. Trang nghiêm lắm.
Hiền Lương hơi ngạc
nhiên. Chùa, chẳng có binh khí, tất nhiên. Cô nghĩ, hay đ́nh, một triều
đ́nh thần linh, một chính phủ của mười lăm tộc trong làng mà vua là bài vị
Tổ tiên trên ngai thờ? Có lẽ ngày xưa, sức mạnh của cộng đồng làng ấp được
nhân lên nhờ ở chỗ cố kết được ḷng dân, quy hướng được tâm linh, và tất
nhiên các trưởng tộc cũng h́nh thành chính phủ với các người có học hàm,
học vị hoặc quan về hưu. Một bước phát triển của công xă thị tộc chăng?
Bây giờ, thêm một bước phát triển như Hành nói hôm qua?
Hiền Lương mê hội họa,
có chú Nông thích đọc đủ thứ sách báo, nên cô vốn chịu khó, lại c̣n có
điều kiện, không khí để t́m hiểu nhiều vấn đề. Cô lại có óc phân tích sâu,
tổng hợp, khái quát hóa tốt, nên nắm bắt vấn đề khá nhạy, tư duy, đào xới
nhanh. Và lúc này, cô cảm thấy ḿnh quá vui khi phát hiện được vài vấn đề,
vài khía cạnh. Mai, ngày mai, phải trao đổi với Hành!
- Khi làm lại đ́nh, bui
(vui) lắm. Đúng là như ôông chi hè, ôông... - Thím hướng về chú Cận, lại
quay qua hỏi con bé đang đọc sách, tiếng hơi lớn hơn - . Bông Bưởi, ôông
chi nói: “Việc trăm lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng
xong” hè?
Bông Bưởi quay lại cười.
Giọng Quảng Trị, tiếng địa phương, nhưng Bông Bưởi phát âm thật chuẩn:
- Dạ, trong sách nói đó
là ông nhà thơ Thanh Tịnh. Ông nớ cũng có gốc gác là Gio Linh, Quảng Trị
ḿnh. “Dễ trăm lần...”, nguyên văn là rứa.
Thím cũng cười rất vui,
lại chuyện tṛ với Hiền Lương.
- Đúng rứa thiệt. Sau
nhiều năm bỏ phế, chỉ thắp hương với quét tước, lúc làm lại đ́nh, dân làng
mừng lắm. Họ gánh đất, đổ đất, cơi thêm nền đ́nh làng cứ như đàn ong xây
tổ. Không ai nề hà quản ngại chi hết.
Hiền Lương nghĩ, sức
mạnh làng thôn truyền thống được huy động, hay diễn đạt cách khác, sức
mạnh tâm linh - lịch sử tiềm tàng ngh́n năm được khơi dậy, có khi là một
phản ứng chống bệnh “ấu trĩ “tả” khuynh”, như Hành nói. Cô cũng nghe ba cô
có phàn nàn: Phục hưng, về nguồn là đúng, nhưng phục cổ, nệ cổ là cổ hủ
luôn. Cô nghĩ, tối nay phải suy nghĩ thêm, mai phải đi một ḿnh lên đ́nh
thắp hương, t́m hiểu thêm nữa, để trao đổi với Hành chứ! Cô thấy ḿnh tự
ái một cách trẻ con, và mỉm cười. Buồn cười, nhưng phải vậy! Cô bặm môi
nhưng lại bật ra tiếng cười. Cô đâm ra bâng quơ nhớ Hành, rồi bất giác so
sánh Hành với những người bạn trai cô đă gặp, đă quen. Năm nay, cô đă hai
mươi hai tuổi rồi, đă cử nhân, - Cô mỉm cười -, yêu đương được chưa nhỉ.
Thật ra cũng đă đôi lần yêu bâng quơ mộng tưởng rồi đó. Từ năm lên phổ
thông trung học, bao anh chàng săn đón, tán tỉnh Hiền Lương, nhưng bọn con
trai Sài G̣n bây giờ bạo quá, Tây quá, Hồng Kông quá... Không, không, mẹ
dặn rồi... Phải giao thiệp với bọn con trai nhưng phải giữ khoảng cách và
phải khôn ngoan, bản lĩnh. Giữ ǵn tâm hồn lẫn thể xác như tờ giấy trắng
khó biết bao nhiêu. Tờ giấy trắng! Mỗi đêm trước khi đi ngủ, cô tự vấn
ḿnh suốt một ngày đă làm ǵ, lại tự kỉ ám thị ḿnh như một lời tâm nguyện
về tờ giấy trắng. Vâng, mẹ ơi, con đă thành khẩn tâm nguyện bao năm rồi,
mỗi từng đêm. Vâng, duy con người là sinh vật được giáo dục và biết tự
giáo dục, nên mới được gọi là con người.
Thím Cận đă xuống nhà
ngang bưng lên mâm chè đỗ đen. Hiền Lương đang bâng quơ, miên man nghĩ
ngợi, cô chợt giật ḿnh.
- Ơ, sao thím không để
cháu bưng lên? - Cô buột miệng.
Và sau khi ăn chè tối,
dọn rửa, đi ngủ, Hiền Lương sực nhớ đến cuốn sách Vô ngôn Vô tự cùng các
h́nh tượng khác, bằng chè kiểng lá nhỏ của ông Hiền. Những mẩu chuyện với
Hành, với thím Cận và cuốn sách Vô ngôn Vô tự cứ chập chờn, cứ sáng rơ về
một cuộc đời mà Hiền Lương đă trông thấy từng nếp hằn đớn đau, tủi nhục
c̣n đọng lại. Khi tuổi già, ai chẳng tóc bạc, da mồi, nhăn nheo, nhưng rơ
là có những mái đầu, gương mặt già nua thanh thản và tự hào v́ đă sống một
đời sống đẹp, có ích cho ḿnh, cho đời. Hiền Lương thương ông Nộp. Ngẫm
cho cùng, cuộc chiến tranh nào, từ xưa đến nay, cũng có hơi nhiều người
như thế, cho dù trên đất nước nào, với màu da nào, dù Đông hay Tây. Họ
không được quyền chọn lựa chính nghĩa hay phi nghĩa, mà chính nghĩa hay
phi nghĩa chọn họ. Họ sáng mắt nhưng họ mù quáng. Họ tự do tay chân nhưng
thực sự tay chân họ bị gông cùm vào vũ khí, họ thành người máy của những
luận điệu tuyên truyền ám thị. Nói như Gơ-ben (13), bộ trưởng tuyên truyền
Đức quốc xă, “chân lí, ấy là sự lặp đi lặp lại những sai lầm”. Sai lầm cứ
lặp đi lặp lại bằng nhiều h́nh thức, kể cả những h́nh thức trong từng mẫu
mă quảng cáo hay tŕnh bày vật hạng tiêu dùng hằng ngày, cũng thành chân
lí. Và nói như ông Nộp với ai đó mà cuốn sách Vô ngôn Vô tự c̣n nhớ, c̣n
ghi, là sự lôi kéo vô thức lẫn hữu thức của cái gọi là “guồng máy”. Những
người như ông Nộp, may mắn, được chính nghĩa chọn lựa, họ được ca ngợi,
được ghi công. Và họ, bất hạnh, bị phi nghĩa chộp bắt, xô lùa, họ bị kết
tội, bị sỉ nhục. Ông Nộp thuộc trường hợp thứ hai. Chẳng hiểu sao, bức kí
họa - vẽ theo trí nhớ - về ông Nộp, đầy những nếp hằn, như vô vàn làn roi
số phận quất lên mặt ông. Hiền Lương nghẹn ngào... Nhưng, trước tiên phải
tự trách ḿnh. Vâng, cô thường nghe ba cô nói, “tiên trách kỉ, hậu
trách bỉ” (II.6). Không thể đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh riêng
và chung. Ba cô c̣n hay hát khẽ bài dân ca Nghệ An, Hà Tĩnh: “Giận th́
giận, mà thương th́ thương, anh sai đường em không chịu nổi. V́ thương anh...
Nhưng trước tiên, anh phải tự trách ḿnh!”. Chú Nông thương người,
thương ḿnh, hát cho ḿnh, cho người, hay chỉ vu vơ hát? Cô chưa hỏi ba
của ḿnh, nhưng cô biết ba cô buồn hận cuộc đời của ông lắm.
Hiền Lương lại miên man
suy nghĩ về cái đ́nh làng.
Ồ, hai hàng gươm đao
giáo mác sáng quắc... Đấy là Đạo Đời chăng? Đạo Yêu Nước - Đạo Xây Làng
Dựng Nước, Đạo Ǵn Làng Giữ Nước chăng? Và cũng là Đạo Làm Người?
Hiền Lương ru cô vào
giấc ngủ bằng câu tự kỉ ám thị - một lời tâm nguyện hằng đêm, một câu
kinh cô tự đặt ra cho chính cô. Hiền Lương quán tưởng về tờ giấy trắng.
Đêm khuya mùa hè bên
sông Bến Hải, ngọn nồm đă thổi vào hơi mát dịu của biển xa, xua hết những
gió nam nóng và nắng lửa. Từng ngọn, từng ngọn nồm, rười rượi, từ cửa Tùng
quê hương...
TXA.
CƯỚC CHÚ chương V:
(12) Vẫn theo cách vận dụng thủ pháp "chép
nguyên xi cuộc sống", tác giả đưa các chi tiết đúng với sự thật lịch sử
vào h́nh tượng hư cấu hoàn toàn, có tên là Nộp này (lăo Nộp là h́nh tượng
điển h́nh cho một phân số nhỏ trong xă hội, loại người đáng thương hơn là
đáng giận, thời nào cũng có). Sở dĩ cần phải chân thật trong việc phản ánh
hiện thực đến mức ấy là bởi tác giả muốn được tŕnh bày lại một vài nét về
những nguyên nhân khiến nửa sau cuộc chiến tranh (với các mốc thời điểm
1858 - 1885 - 1930 - 1945 - 1954 - 1975 - 1989) kéo dài đến kinh hoàng như
vậy. Đó là những nguyên nhân lịch sử mà tác giả đă cẩn trọng, trung thực
điều tra, thu thập tư liệu và nghiên cứu. Kính mong một số độc giả kính
mến không lấy thế làm điều đáng bức xúc và quan trọng nhất là đừng ngộ
nhận về tác giả. Xin vui ḷng, nhẫn nại xem tiếp cuốn tiểu thuyết này, đặc
biệt là các chú thích ở chương XIII, cho đến những trang lời bạt "Ư nghĩ
khi đọc lại tiểu thuyết của ḿnh, MÙA HÈ BÊN SÔNG: ..." ở cuối sách...
(13)
a) Đức quốc xă và kẻ sĩ...
trán ngời chất ngọc
ngạt dưới bùn rong
đen ngh́n băo lốc
quăng quật chút ḷng.
b) Gơ-ben (Gœbels)
ba gầm bảy phét
không tin không im
triệu rỉ tỉ hét
đầu rủ mắt dim.
TXA.