TRẦN
XUÂN AN
m ù
a
h è
b
ê n
s
ô n g
(nỗi đau hậu chiến)
tiểu thuyết
nnhà
xuất bản
1997 & 2003
CHƯƠNG XI
1
Nhà ông Hiệu Điên vẫn
như mọi căn nhà khác ở nông thôn, trống toang trống toác, không pḥng ốc
ǵ cả. Ông lại đi vắng. Người con trai của ông tuổi chừng năm mươi, bên
mấy đứa cháu nhỏ gọi ông Hiệu bằng cố, đón tiếp Hiền Lương, chưa kịp rót
nước, Hiền Lương đă cản tay người đàn ông ấy, xin phép về.
Theo lời bác con trai
của ông Hiệu, Hiền Lương ra bờ sông, bến nước gần nhà ông nhất để t́m. Ông
mới xách oi với gói giun đất, vác cần câu ra đó.
Tre hóp xơa bóng trên
bến mát rượi. Mặt sông loáng nắng, dập dềnh trên những gợn sóng bao lá tre
hóp vàng úa. Đến tận bến, vẫn không thấy có ông Hiệu Điên ở đấy, Hiền
Lương thở dài, nghe ră rời, thất vọng. Cô ngồi xuống thành xi măng xây
xuôi bên bậc cấp của bến. Mồ hôi thấm ướt áo, gió thổi mát cả lưng.
Thế là Hiền Lương đành
phải về nhà ông giáo Hiền thôi. May ra với những bài báo viết về ông Hiệu,
cô lọc được chi tiết nào khả dĩ bổ sung thêm những ǵ cô đă hỏi thăm, đă
hiểu về ông. Thật ra, cô muốn hiểu thật sâu, thật đầy đủ về cuộc đời ông
suốt bảy mươi ba năm ông sống, muốn hiểu tận cùng, c̣n những nét lớn,
những bước ngoặt trong đời ông, tâm trạng ông, Hiền Lương đă gần như thuộc.
Hiền Lương thấy Hành nói đúng. Ông Hiệu là một nhân vật có tính cách độc
đáo, là một Anh Hùng, một Con Người, viết hoa cả hai chữ, phần “Con” (sinh
vật) cũng đáng kính, phần “Người” (văn hóa) cũng đáng trọng. Tất cả ở ông
đă được ư chí, nghị lực của chính ông làm thăng hoa trong đời sống thực.
Chỉ tiếc là vết thương ở sọ năo do bị tra tấn đă biến ông thành người tàn
phế, mặc dù mọi người và cả chính ông chẳng “phế” ông. Ông không đánh đắm
cuộc đời ông vào bệnh tật với vết thương thực thể ấy. Nhưng có ǵ đau hơn
khi một số phận lẽ ra sẽ thành đạt, sẽ cống hiến lớn cho đời, đành phải
lủi thủi, thỉnh thoảng lên cơn sùi bọt, lang thang suốt nẻo đường làng, từ
những năm c̣n tuổi hai mươi!
Hiền Lương dơi mắt theo
chiếc đ̣ buôn bán rau mắm từ Cửa Tùng đang ngược ḍng ngang qua bến. Hiền
Lương tiếc ḿnh đă mua vé tàu lửa rồi. Cô ngồi thừ người bâng khuâng trong
tiếng lao xao, kẽo kẹt của tre hóp, chợt nhớ lại vở kịch cương hôm nào
Hành đă kể cho cô nghe khi hai người tha thẩn lên chùa. Hôm ấy, đang
chuyện vui, Hành bỗng trở lại với những vết thương chiến tranh và cách
mạng, vấn đề Hiền Lương quan tâm. Anh kể về vở kịch cương,
vở-kịch-một-người, vở-kịch-giữa-đời, anh đọc cách đây mười mấy năm:
- Nhân vật có lí lịch
gia đ́nh ngụy từ Pháp đến Mỹ, lạ một điều là cha và anh của nhân vật đều
ngụy quyền cấp cao, không có ai ngụy quân. Chính gốc vốn ở một làng quê
giữa rặng núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh, theo cha mẹ di cư sau Ngày Chia cắt,
nhưng nhân vật đấu tranh trong sinh hoạt bệnh viện, cả về chuyên môn, gần
như Pa-ven, nhân vật trong tiểu thuyết Thép Đă Tôi Thế Đấy. Anh ta vừa
giỏi chuyên môn, vừa đỏ đến vậy, nên nhiều đồng nghiệp quư mến, tuy ngại,
sợ đấu tranh. Chẳng biết ai xúc xiểm, có người bôi nhọ anh ta yêu cô giáo
Thơm dạy chính trị - người Bắc bảy lăm, con cán bộ tập kết - để lên chức
vụ nào đó, tức là “kiếm” cái ghế! Nguyên văn lời bôi nhọ ấy c̣n là thế này:
“Cô ấy dạy chính trị, cái nghề cưỡng hiếp lịch sử. Yêu cô Thơm là vô luân”.
Anh ta bị bôi nhọ, bị sỉ nhục đau đến vậy. Và anh ta c̣n bị cho uống hóa
chất tâm thần thực nghiệm. Người ta muốn biến anh ta thành một nhân vật
tâm thần! Quả là nhân vật ấy có viết tiểu thuyết hư cấu lại từ các nguyên
mẫu ở trường phổ thông trung học cũng gần nơi công tác, trong đó có nhân
vật Thơm. Nhưng đấy là tiểu thuyết! Suốt mấy năm trời công tác ở miền núi,
y bác sĩ này có bao giờ tán tỉnh cô này! Trong thực tế, anh ta lại yêu tín
đồ Thiên Chúa giáo và con gái gia đ́nh ngụy: Trần Thị Tuyết Sáng và Nguyễn
Lan Mùa Thu. Anh ta bị ép phải bỏ việc. Về Sài G̣n, anh ấy đi kiếm việc
làm, người ta không chấp nhận, ngay cả việc cho vào Lực lượng Thanh niên
xung phong. Anh ta đành về quê. Đến nhà, nhân vật y bác sĩ ấy lại chạy vào
Quy Nhơn, nhưng cũng chẳng biết vào đó để làm ǵ. Nhân vật lại về quê! Rồi
anh ta nghĩ, công an đă chủ mưu vụ này, bởi lẽ, đă viết đơn kêu cứu Sở Y
tế, Viện Kiểm sát bao lần, nhưng vẫn bặt tăm (có lẽ người ta biết đấy là
đơn của người hoang tưởng). Nhân vật đành ở trong thế phải gầm lên, đọc
đơn ngay trước chợ, để công khai hóa! Đêm đêm, nhân vật nghe công an đứng
sau phên tôn lủng lỗ chỗ miểng đạn của nhà anh ta, ám thị anh ta, lúc thức,
cũng như lúc ngủ. Nội dung ám thị là cô Thơm (gái Bắc) đă sa-đích số phận
anh ta, mẹ và chị anh ta cũng đă sa-đích số phận anh ta như vậy. Nhân vật
“bị trói” trên giường, thành nạn nhân của sa-đích, gầm rú. Thiên hạ hùa
nhau sa-đích, buộc đừng “lên” hoặc “chịu”!
Hiền Lương sượng sùng,
gượng mỉm cười.
Hành vẫn tiếp tục kể vở
kịch cương viết về vết thương chiến tranh ấy:
- Cả cái ghế cũng đè
cứng lên cuộc đời anh ta! - Hành nói nhanh và rơ, rồi chậm răi -. Như đă
kể, y bác sĩ ấy bị ám thị để bôi nhọ rằng, anh ta “vô luân” v́ chấp nhận
sự cưỡng hiếp lịch sử... Trong giấc mơ hoang tưởng, anh ta c̣n thấy
công an ám thị kiểu thôi miên, điều khiển cả giấc mơ. Công an nhảy xổ vào
giấc mơ điều khiển sự tùng xẻo, cắn xé kiểu sa-đích và ám thị nhập tâm để
bôi nhọ, nhằm kích động chống lại Đảng: đạo diễn “hoang tưởng bị sa-đích,
gồm cả bị bôi nhọ”, bị giết về nhân cách, bị tử h́nh sinh mệnh đạo đức và
cả sinh mệnh chính trị!
Hiền Lương ngạc nhiên,
nh́n những bóng nắng trên đường làng. Cô cũng chợt thấy Hành kể chuyện quá
rối rắm.
- Nhưng tại sao công an
lại làm như vậy? Kịch sửa sai? - Hiền Lương hỏi -. Anh có thể nói rơ hơn
không?
- Để mọi người thấy, gia
đ́nh ngụy, không thể đỏ được, đỏ dổm, đóng kịch đỏ mà thôi. Nhân vật tự
suy luận: đă công khai hóa, đọc đơn giữa chợ, công an, chính quyền chẳng
nói ǵ, cũng chẳng xét xử hoặc bảo vệ th́ rơ là công an Bộ Nội vụ chủ mưu
rồi, do đó, càng chửi để công khai hóa. Và anh ta càng chửi Bác Hồ, chửi
Đảng, càng trúng kế. Kế ấy bày ra để làm ǵ? Để bảo vệ chính trị nội bộ,
bởi sợ anh ta chui sâu vào guồng máy cán bộ Đảng và Nhà nước, như Vũ Ngọc
Nhạ, một thứ gián điệp trong “Ông Cố Vấn”, cỡ nào đó... Nhân vật
lại rủa cả ông Trường Chinh về đấu tố.
- Nhân vật của vở kịch
đă man khai lí lịch sao?
- Không. Nhân vật khai
lí lịch rất chính xác, trung thực từng chi tiết. Trừ bản thân, dẫu sao lí
lịch thân thuộc anh ta cũng là chống cộng. Thực ra, nếu anh bị bôi nhọ, bị
ám thị vậy, anh cũng chửi tất!
- Làm sao chui sâu được,
nếu với lí lịch rơ ràng như thế?
- Nhân vật có tài, có
chút tài. Anh ta ngang tính, không sử dụng được, nên làm vậy để chứng minh
“chủ nghĩa lí lịch” là đúng. Thực tâm anh ta đỏ, mặc anh ta, vẫn cố sức ép
anh ta chống lại Đảng, Bác Hồ, chửi ông Lê Duẩn... Để làm ǵ? Dựng đứng sự
cố ở một nơi hẻo lánh như thế, ai biết đâu mà làm vậy? Để rồi đồn miệng,
tuyên truyền miệng một bài học cảnh giác... Thỉnh thoảng anh ta chửi trong
năm tám ba đó. Sau đó là âm hưởng chấn thương tâm hồn.
- Thế rồi, anh ta thế
nào? Cứ kể theo diễn biến vở kịch!
- Th́ chỉ phát điên vào
năm một ngàn chín trăm tám ba ấy. Cái ghế, gái Bắc, mẹ và chị... là những
h́nh tượng được hư cấu để phản ánh vấn đề giai cấp, ư thức hệ thể hiện từ
trong mỗi nhà ra xă hội. Đó là vở kịch về vấn đề giai cấp, có thể nói rơ,
cụ thể là về sự sa-đích lịch sử... Anh ta “vô luân v́ cam làm nạn nhân của
sa-đích”! Bây giờ, “cởi trói” rồi, “cởi trói” từ năm tám bảy!... Trong vở
kịch, dàn đồng ca lật lại vấn đề, v́ nghe đồn thổi, rằng bôi nhọ anh ta
như thế, để trả đũa bằng cách tố cáo lại sự sa-đích lịch sử nhằm thanh
minh cho Ngô Đ́nh Diệm với Trần Thị Lệ Xuân, cũng là để thăm ḍ dư luận.
Một bung xung lănh đạn! Thực ra, Ngô Đ́nh Diệm - Lệ Xuân chỉ là bung xung
kiểu ma-ki-a-ven-lít!?
- Vậy thủ phạm là ai? Ai
biến anh ta thành một dạng bung xung ma-ki-a-ven-lít để tố cáo sự sa-đích
lịch sử? C̣n anh em Diệm, th́ rơ quá rồi, chỉ là các bung xung ma-ki-a-ven-lít
làm nhiệm vụ độc tài kiểu sa-đích. - Hiền Lương lại hỏi -. Vậy ai là thủ
phạm đạo diễn ra vụ bức hại cuồng này?
- Kẻ giấu mặt! Nói ngược,
nói xuôi, dàn đồng ca bị cảm ứng bởi hoang tưởng và lại bị chi phối bởi kẻ
giấu mặt! Kịch tâm thần cũng lây thành dịch đấy! Vụ tố cáo sự sa-đích lịch
sử, văn hóa, tư tưởng này, ngoài tác dụng tích cực là đánh động và kêu gọi
các nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà triết phải tổng xét duyệt lại tất cả, c̣n
có một số tác hại không nhỏ là bọn thực dân, phát-xít, đế quốc, bọn tay
sai gian ác như Diệm, Nhu, Lệ Xuân và Thiệu, Kỳ cũng được biện minh, thậm
chí tội ác của Thiên Chúa giáo từ triều Nguyễn đến nay cũng có cơ hội để
biện minh! Đó là “tác dụng phụ” của một liều thuốc chữa bệnh.
Hiền Lương kinh ngạc,
không hiểu vở kịch có nguyên mẫu trong đời hay không, có thể chỉ là mười
mươi hư cấu. Cô đề nghị Hành kể tiếp.
- Đó là con người có
thật, được viết thành kịch! Điên lên, chửi, để êm êm, anh ta lại đỏ, đỏ
kiểu mới, nhưng vẫn đỏ, nói chung là đỏ từ đầu chí cuối, trừ đôi lúc chửi
v́ bị ám thị nhục nhă như thế. Ai lại cam đành là nạn nhân của sa-đích như
vậy... (thiên hạ có thể “fuck you” anh ta chứ!...), nên phải chửi! Nhân
vật chửi chế độ v́ nghĩ chính công an đưa anh ta vào vở kịch này. Cũng
thực là, anh ta bị buộc làm người điên của Nhật Kí Người Điên, nhân vật
trong tác phẩm của Lỗ Tấn! Đấy, một “vở kịch giữa đời”, để đồn miệng. Một
kí kịch, không hư cấu, hiện thực được cô đặc lại... - Hành ngừng lại, rồi
nói tiếp -. Vẫn có người dùng h́nh tượng Khuất Nguyên để làm lá chắn nhằm
tự bảo vệ trước nguy cơ bị bôi nhọ! Khuất Nguyên, một nhà thơ lớn của
Trung Hoa, cũng như bạn bè, mọi người yêu thơ, làm nhạc khác, trước khi
điên, anh ta rất tâm đắc... - Hành bỏ lửng, lại nói -. Nội và ngoại nhân
vật mười đời không một ai điên. Không một ai bị tâm thần, trong thực tế lí
lịch.
Hai người vẫn bước chậm
trên đường làng. Hành lại kể, tự nhận thấy ḿnh quá lủng củng trong khi
diễn đạt nhưng lại mỉm cười, v́ anh hiểu rằng “lủng củng” cũng là một thủ
pháp của nghệ thuật gợi ư, kích thích động năo.
- Trừ cái năm tám ba ấy
thôi, ngoài ra nhân vật chẳng bao giờ điên cả, c̣n tỉnh hơn những người
tỉnh nhất. Trí thức nên trầm tĩnh phê phán, sao lại chửi bới! Buộc anh ta
làm bung xung như vậy, th́ quá độc ác! Biến anh ta thành kẻ cơ hội, tráo
trở, làm tan tành sự nghiệp chứ chẳng chơi! Thân bại, danh liệt! Di hại về
sau, tất cả mọi mặt! Quá độc ác, và vô nghĩa! May là kịch!
Họ bàn về cái gọi là
kịch cương, về những nỗi đau chiến tranh.
- Hay Việt kiều, CIA.
của Mỹ, P.II của Pháp..., Thiên Chúa giáo, một bộ phận nào đó của Phật
giáo... là thủ phạm vụ này? Mục đích là phục thù, gỡ gạc lại sự thảm bại
nhục nhă trước bảy lăm? Nhưng xem ra chẳng gỡ gạc được ǵ. Sự thật lịch sử
vẫn là sự thật. Thảm bại vẫn thảm bại. Chẳng ai dại ǵ xây lâu đài tâm
huyết trên sự giả dối, lừa mị. - Hiền Lương chợt nhấn mạnh -. Có thể bọn
Mỹ, Pháp, Nhật muốn li gián dân Miền Nam với Đảng và chính quyền cách mạng,
khoét sâu mâu thuẫn, mặc cảm để làm hậu thuẫn cho chúng trở lại thực dân
về kinh tế. - Hiền Lương nói.
- Đọc vở kí kịch, ḿnh
suy nghĩ như vậy. Chúng ta không ngu. Nổi rơ trong vở kịch là vấn đề ư
thức hệ, giai cấp trong gia đ́nh, ngoài xă hội, giữa các nước. Vở kịch đă
lật ngược, lật xuôi nhiều vấn đề về “chiến tranh và cách mạng”, trong đó
có vấn đề ư thức hệ, duy tâm hay duy vật, tư hữu (tư bản) hay công hữu (cộng
sản), vấn đề mối quan hệ hài ḥa giữa cái riêng và cái chung, vấn đề đấu
tố giai cấp, vân vân... Khi điên, nhân vật trong kịch quan tâm đến mọi
b́nh diện của vấn đề đấu tranh giai cấp suốt cuộc, đặc biệt là quyền sống,
nhân quyền. Anh ta khái quát: đấu tranh giai cấp thực chất là
đấu-tranh-sinh-tồn-của-sinh-vật-theo-Đác-uyn (Darwin).
Từ quy luật sinh vật học, Các Mác vận dụng vào kinh tế học, xă hội học và
lịch sử với quan điểm biện chứng đó thôi. Ai cũng muốn sống, muốn làm
người ra người, người đừng bóc lột người, bức hiếp người!
- Th́ ra chỉ là tạo
t́nh huống giả và đạo diễn một vở kịch! Quảng Trị ḿnh có
vở-kịch-một-người ḱ lạ. Vở-kịch-giữa-đời th́ có nghĩa lí ǵ! Như thế cũng
chỉ là hư cấu!
Cô lại nghĩ ngợi trong
âu lo, nếu ai bôi nhọ, ám thị, ḿnh căi, và căi là mắc mưu sao?! “Giết
người” rồi vu cáo thành “tự sát”?! Ở đây, lại “giết” nhân phẩm, sinh mệnh
chính trị !
Hành cảm khái một cặp
câu đối trong giai thoại về Cao Bá Quát:
Nước trong leo lẻo,
cá đớp cá
Trời nắng chang chang,
người trói người!
Hành nói :
- Nhưng y bác sĩ ấy
không phải là Cao Bá Quát, cao ngạo và nổi loạn.
Hai người đến bậc thềm
cổng phụ của chùa. Hành mỉm cười:
- Ngồi đây nghỉ một lát.
Bóng cây ngọc lan rất mát!
Hiền Lương ngồi xuống,
nhớ động tác rửa tay của Phi-la-tô La Mă, khi đă quyết định tử h́nh Chúa
Giê-su.
- Nhân vật y bác sĩ ấy
vốn rất chuyên tâm về tâm thần học trước khi bị nạn ấy. Nhân vật cũng đă
sáng tác rất nhiều nhạc t́nh! Anh ta vừa làm y bác sĩ, vừa làm nghệ thuật,
viết nhạc tặng năm người yêu chính thức: Hồ Xuân Mưa Hoa, Trần Thị Nhà
Xinh, Lê Thị Chất Sen, Trần Thị Tuyết Sáng, theo thứ tự, từ những năm
trung học đến khi bị nạn ấy. Và có thể kể thêm cả Nguyễn Lan Mùa Thu, cô
học tṛ lớp mười hai do nhân vật dạy kèm môn sinh (cô bé này “không” yêu
nhân vật này) cùng một lô nàng thơ khác. Nhạc là một trong những sản phẩm
hư cấu của trí tuệ và tâm hồn, do đó, không lạ ǵ khi thấy nhân vật c̣n
viết nhạc t́nh thay cho nhiều người, mọi người nữa... Qua những nàng thơ
của âm nhạc anh ta, thấy rơ một quan niệm về con người siêu thành phần,
phi lí lịch, độc lập trong các quan hệ, theo cách nh́n nhận của xă hội
Việt Nam ḿnh từ xưa..., và rất thơ mộng... Một vở kịch quá vô ích! Một
cơn tâm thần thực nghiệm! Hay vở kịch viết về một người bị đạo diễn, để
kêu đ̣i nhân quyền và “cởi trói”!?
Hiền Lương hơi chạnh
ḷng, lại mỉm cười.
Hai người đều thấy quá
vô nghĩa, nếu quên vở kịch, chỉ chú ư đến diễn viên, đúng hơn, một y bác
sĩ nhạc sĩ bị buộc phải đóng vở kịch Nhật Kí Người Điên ngay giữa đời, hay
bị “giả điên” th́ cũng thế.
Hành và Hiền Lương ngồi
lặng im một lúc lâu trên bậc cấp cổng phụ của chùa. Cả hai trầm ngâm suy
nghĩ. Họ ngồi đấy, cho dịu bớt hơi nắng. Bóng cây ngọc lan mát rười rượi.
Lát sau, Hành khẽ nói:
- Thôi, hăy quên anh
chàng y bác sĩ nhạc sĩ bức hại cuồng ấy đi. Anh ấy đă là y bác sĩ nhạc sĩ
nổi tiếng rồi.
- Bây giờ anh ấy sống ở
đâu? Làm nhạc kí bút hiệu hay tên thật?... Ồ, những số phận bị cả hai bên
bốn bề cưỡng hiếp và bôi nhọ!
Hành nh́n Hiền Lương,
khi ấy, cô đang trông xa vời ra cánh đồng. Anh nói:
- Ở Nha Trang. Nhạc sĩ
Đất Lành đó, y bác sĩ Lê Đất Lành... Trừ cái năm một chín tám ba đó, từ
nhỏ cho đến bây giờ, anh ta chẳng hề điên một tí nào cả! Có người bảo, năm
tám ba ấy, anh ta chỉ giả điên mà thôi! Nói cho đúng, anh ta không giả
điên một cách ngu muội như vậy. Anh ta bị kẻ khác kích động, chọc điên một
cách rất có kĩ thuật, với những loại thuốc hóa chất nào đó...
Hiền Lương nghe cái tên
là lạ. H́nh như chưa bao giờ cô được nghe nhạc của nhạc sĩ này. Cô cũng
ngạc nhiên, nếu nhạc sĩ ấy nổi tiếng sao cô chẳng biết. Có lẽ anh ấy chỉ
nổi tiếng về nghề y bác sĩ ở một thành phố ven biển ấy thôi, nhưng trong
ngôn ngữ nói, Hành quen miệng kết lại hai chức danh làm một, hoặc chỉ được
biết đến ở Quảng Trị này, về tài nhạc lẫn nghề y.
Hiền Lương cười, muốn
“xới” thêm vở kịch gián cách kiểu Bơ-rét (Brecht) ấy:
- Hay đấy là “Bi Kịch
Người Đốt Đền”, đốt đền cho nổi tiếng? Nói như thế th́ ác thật. - Hiền
Lương bưng mặt xấu hổ v́ điều cô vừa nói.
Hành giật ḿnh, không
ngờ cô gái dịu dàng, nhân hậu này lại nêu vấn đề như vậy. Anh cười buồn,
chuyện thế sao diễn dịch ra thế!
- Về nghĩa bóng, đền thờ
nào thiên hạ cũng đốt rồi. Đông, Tây ǵ cũng thế. Rất nhiều thế kỉ rồi,
những ngôi đền, thánh đường đă bị bốc cháy, dọc theo chiều dài lịch sử tư
tưởng, triết học bởi Đi-ô-gen Xi-ních, Căm-pa-nen-la, Mác, Nít-sơ, Ca-muy,
Sác-tơ-rơ... Người ta đă “triết lí với cây búa”, và đă đến từ rất lâu thời
“hoàng hôn của những thần tượng”. Có thần tượng nào c̣n đâu! Trước bảy lăm,
trong Nam cũng hạ bệ thần linh tơi bời, cả lănh tụ cũng thế. Nếu ai mưu
toan “đốt đền” để nổi tiếng, có lẽ muộn rồi, và chỉ chuốc lấy tiếng cười
khinh bỉ. - Hành ngừng lại -. Nhưng anh ta có tài, có bao nhiêu điều kiện
để nổi tiếng, ít nhiều cũng nổi tiếng trước khi bị đóng kịch cái
vở-kịch-một-người-giữa-đời oái oăm, đau khổ ấy, th́ cần ǵ làm vậy. Anh ta
chỉ là nạn nhân của một mưu đồ chính trị, và quả là đă mắc mưu thật! -
Hành nhỏ giọng lại, nói tiếp -. Nếu công tác tổ chức kĩ thế, sao Liên Xô
và các nước Đông Âu sụp đổ...? Vấn đề là chính nghĩa, hiệu quả xă hội và
năng suất kinh tế, chứ không phải là nguyên tắc tổ chức...? - Hành lúng
túng, bỏ nửa chừng câu nói, v́ anh chỉ muốn nói về người bị “giả điên” -.
Đấy là một người rất bản lĩnh, sức khỏe tinh thần - thể chất rất tốt,
không có tiền đề tinh thần - thể chất cho bệnh điên. Tính cách của anh ta:
nhiệt t́nh, chịu khó, kiên tŕ..., đặc biệt là rất điềm tĩnh, sáng suốt.
Hiền Lương buột miệng:
- Em đọc sách, biết có
hóa chất tâm thần thực nghiệm.
- Đúng. Có thuốc ấy thật,
và c̣n có bao nhiêu thiết bị điện tử để điều tra!
- Và có cả thuốc khai
thác tù nhân, thuốc nói thật.
- Đúng. Thuốc nói thật
có từ rất lâu rồi, ít ra từ những năm sáu mươi. Nhưng phải bắt được trọn ổ
những kẻ phạm tội, bọn thủ phạm vụ này, cho tất cả uống thuốc trong pḥng
biệt giam, để những lời nói thật do tác dụng của thuốc phun ra, rồi tổng
hợp, đối chiếu, coi khớp không. Thuốc thường dùng để khai thác đối tượng
bị t́nh nghi là gián điệp.
Bất ngờ, Hiền Lương nói:
- Đấy là thần dược! Có
nó, mọi người khỏi bị nghi là gián điệp. Hoặc, mỗi người tự nguyện đeo
thiết bị theo dơi! - Hiền Lương trầm ngâm, bỗng thấy chua xót quá đỗi -.
Nhưng có phải người ta bày ra vở-kịch-một-người-giữa-đời như vậy để mọi
giáo viên dạy văn, dạy sử Miền Nam “mất dạy”? Những người làm nghệ thuật...
phải bẻ bút, quăng cọ...? Nếu lên án ngụy, người ấy bất hiếu, vô luân, th́
ai cũng thế, bởi ai cũng ít nhiều dính líu huyết thống với ngụy quân,
ngụy quyền, “tả đạo”. Phải chấp nhận sự thực lịch sử, nếu sử kí, khoa học,
văn hóa... không bị sa-đích nữa.
Hành thở dài. Có phải
đấy là một dụng ư gỡ gạc lại vấn đề lịch sử?
- Lịch sử giai đoạn vừa
qua đau đớn thật. Ngày xưa, Phạm Thái, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Du, Bà
Huyện Thanh Quan..., nói chung, kẻ sĩ Bắc Hà sau thời Trịnh - Nguyễn, Tây
Sơn - Lê Trịnh đau khổ một, nay trí thức và nhân dân Miền Nam đau khổ mười,
có thể gấp trăm nữa. - Hành nói với ngữ điệu bi phẫn -.V́ ư thức hệ. V́
thế lực bên ngoài Đất nước của cả hai miền... Của cả hai miền!
Hiền Lương nh́n xa xăm,
nhưng thực ra không nh́n đâu cả, nghe vết thương trong tim cô nhói buốt.
... Ờ, chuyện phiếm bao
giờ cũng rối...
Vả lại, đó là một vở
kịch cương, lời thoại và t́nh huống kịch rất tùy nghi. Hơn nữa, đó cũng là
vở kịch theo dạng gián cách của trường phái Béc-tôn Bơ-rét (Bertolt Brecht),
có sự tham gia của dàn đồng ca để xới lật vấn đề và để phản ánh ư kiến của
quần chúng xem kịch, kể cả loại ư kiến bên ngoài chủ đề, chủ đích của vở
kịch. Do đó, không thể không rối rắm, mâu thuẫn.
Hành cũng chừng như muốn
kể lủng củng, ngắt quăng, rời rạc, nên c̣n rối rắm, mâu thuẫn hơn. Đúng là
một vở kịch tâm thần! Rơ là một vở kịch bức hại cuồng! Có điều, dẫu sao,
Hiền Lương vẫn trực nhận ra một chủ đề nhất quán.
... Ờ, chuyện phiếm bao
giờ cũng rối...
Hành và Hiền Lương rơi
vào một lúc im lặng khá lâu. Mỗi người đang đeo đuổi ư nghĩ riêng của ḿnh.
Hành lại cười buồn, nhăn
mặt:
- Thôi, thôi, hăy quên
anh chàng y bác sĩ nhạc sĩ ấy đi. Đau đớn lắm! Đúng, vấn đề là vở kịch,
chứ không phải là diễn viên. Việc bị đóng kịch, bị “giả điên” không thành
vấn đề!... “Con người là tổng ḥa của các quan hệ xă hội, trong tính
hiện thực của nó”, Mác đă viết như vậy. Vấn đề là “tính hiện thực của
nó”, của các quan hệ... Lí lịch gia thế vô nghĩa, nếu không hiểu cụ thể.
Người ta xem lí lịch là một rào cản hoặc một quyền lợi khi “hạnh phúc
là chiếc chăn quá hẹp”... Và phê phán những sai lầm của Đảng không
phải là chống Đảng, là phản quốc. Đừng lấy lí lịch để bịt miệng, bóp nghẹt
dân chủ... Những ai tham gia cách mạng Miền Bắc sau năm tư, hoặc từ bé tí
theo cha mẹ ra Bắc làm “học sinh Miền Nam” ở Bắc, sao đáng quư hơn những
ai ở Miền Nam đấu tranh tự phát v́ yêu nước!
Hiền Lương vẫn im lặng.
Cô thấy ỷ lại, dựa hơi là chuyện bẩn thỉu phổ biến, để giành giật quyền
lợi. Hành lại nhớ đến vấn đề Ma-ki-a-ven, trong khi đó, Hiền Lương chợt
liên tưởng đến lí lịch Mác, Ăng-ghen...
Hành nói:
- Ma-ki-a-ven-lít! Vấn
đề là không phải không chấp nhận hành-vi-ác-độc-cần-thiết v́ mục đích cuối
cùng, tức là cứu cánh, hợp với đạo lí phổ quát. Vấn đề là biện pháp ấy,
biện pháp vạn bất đắc dĩ ấy, thực hiện trong t́nh huống nào. Đánh giá một
chủ trương, một hành động chính trị phải xét đến t́nh huống cụ thể - lịch
sử, cũng như đánh giá một phong trào khởi nghĩa, một lănh tụ phải xét đến
yêu cầu lịch sử trong một không thời gian nhất định. Trong một t́nh huống
có nhiều cách giải quyết, nên thận trọng xét xem cách giải quyết nào là
tối ưu. Bối cảnh ấy, t́nh huống ấy có cần phải nổi dậy, độc tài, bóc lột,
tàn ác, đổ máu không? Và v́ ai? V́ dân tộc, nhân loại hay v́ lợi ích vị kỉ?
Trước ánh sáng khoa học, tội ác chỉ là tội ác nếu v́ quyền lợi cá nhân,
cục bộ, bản vị. Chân lí và sự thật lịch sử thuộc về khoa học và thời gian
chứ không thuộc về kẻ mạnh - các thế lực bên ngoài Đất nước. Cũng không
phải “kẻ chiến thắng không bị xét xử” như Ma-ki-a-ven nói... Hiền Lương
đồng ư vậy không? Trở lại với vở kịch cụ thể: Nêu lên và giải quyết vấn đề
lịch sử, gồm cả văn hóa, một cách văn minh hay man rợ? Và đánh giá thế nào
nếu nêu lên vấn đề, giải quyết vấn đề lịch sử, văn hóa một cách man rợ
nhưng lẽ ra không cần thiết phải man rợ đến mức độc ác như thế?
Bất giác, Hiền Lương
buột miệng:
- Em chợt sáng ra vấn đề.
Vở-kịch-một-người, vở-kịch-giữa-đời về một nhân vật bị bức hại cuồng khiến
em liên tưởng đến các vụ bức hại giáo dân Thiên Chúa giáo dưới triều
Nguyễn. Phong trào “b́nh Tây sát tả” (II.12) thời đó là sự thật lịch sử,
diễn ra từ triều Minh Mạng đến giai đoạn Cần vương. Có phải người ta muốn
làm sáng tỏ về các giáo dân bị bức hại qua h́nh tượng y bác sĩ nhạc sĩ nọ?
Nhân vật ấy có phải là giáo dân không?
Hành lắc đầu:
- Không. Đúng ra, nhân
vật ấy bỏ đạo Lăo từ rất lâu, mà cũng chỉ theo Lăo giáo từ thời học cấp
một đến hết cấp hai. Vở kịch chỉ lướt qua chi tiết này.
- Vậy mà em cứ ngỡ đây
là vụ “sát tả” mới. H́nh như anh có nói, vở-kịch-một-người xảy ra vào năm
một chín tám ba? - Hiền Lương run giọng.
- Đúng. Đó là thời điểm
lẽ ra phải kỉ niệm một trăm năm thất thủ Thuận An, một tám tám ba - một
chín tám ba (1883-1983). Nhưng đó chỉ là ngẫu nhiên, trùng hợp ngẫu nhiên
thôi. Chẳng lẽ... “đánh phủ đầu, chận họng”?
- Sao em vẫn có cảm
tưởng rằng đó là một cuộc báo oán, phục thù và ngụy biện về các vụ bị bức
hại của “tả đạo”. Thiên Chúa giáo hồi đó theo giặc Pháp thật!
Hành khẽ giật ḿnh, suưt
bật ra thành lời: “Phép lạ” Quy Nhơn và thánh địa La Vang! Anh cau mày
ngẫm nghĩ: Chận họng? Báo oán? Phục thù? Ngụy biện?
- Chẳng lẽ Thiên Chúa
giáo buộc nhân vật ấy phải trả món nợ lịch sử từ một trăm năm trước?!?!
Đúng là có các vụ “sát tả” ở Truồi, Cầu Hai, và sau ngày kinh đô Huế thất
thủ, ở B́nh Định và tại tổng Bái Trời này! Ồ, chúng ta chỉ suy diễn một
cách hoang tưởng thôi! - Hành nói -. “B́nh Tây sát tả” là vấn đề lịch sử.
Sử học là một khoa học, mọi vấn đề thuộc về lịch sử đều cần thiết phải có
tư liệu và là tư liệu đă được giám định về tính xác thực, phải loại trừ tư
liệu giả, tư liệu sai lạc, đồng thời phải tiến hành các thao tác khoa học
khác. Hiền Lương đồng ư không? Phải tỉnh táo, sáng suốt để thấy rằng,
vở-kịch-một-người, vở-kịch-giữa-đời ấy chỉ là một tiếng gào thét đánh động,
và chỉ như thế. Muốn làm sáng tỏ sự sa-đích lịch sử, sa-đích văn hóa, kể
cả sa-đích tôn giáo, và bi-kịch về nạn nhân do sự sa-đích suốt khoảng một
trăm năm mươi năm gần đây, không thể chỉ là vở kịch bức hại cuồng đơn giản
như vậy. Muốn làm sáng tỏ, thật ra, phải có một loạt công tŕnh nghiên cứu
khoa học nghiêm túc và xác thực, trên cơ sở các tư liệu được giám định
nghiêm ngặt bằng phương pháp thực nghiệm. - Hành nh́n ra cánh đồng phía
trước, lại nói -. Sự báo oán, phục thù ư? Và ngụy biện về vấn đề “b́nh Tây
sát tả” một cách hàm hồ, man rợ như thế th́ thuyết phục được ai? Chẳng lẽ
để phỉnh gạt trẻ con và người già lú lẫn? Ồ, chúng ta suy diễn một cách
quá mức hoang tưởng rồi! Phải bám chặt chủ đề của vở kịch chứ! Đó là vấn
đề “bị sa-đích lịch sử”, gồm cả vấn đề “bị sa-đích văn hóa”
..., vấn đề chủ nghĩa lí lịch... Phải bám sát chỉnh thể h́nh tượng vở kịch:
“hoang tưởng bị sa-đích, cùng dạng như Nhật Kí Người Điên”. Ngoài
ra, có thể nói thêm về phương thức phản ánh và “tác dụng phụ”. Đó là vở
kịch thuộc phạm trù mĩ học cái tục tĩu, thường được dùng trong truyện tiếu
lâm chính trị! Đó là một sự sỉ nhục độc ác! Đó là một sự tố cáo vấn đề
sa-đích để trả đũa sử học, văn hóa học, tôn giáo học..., và để vô hiệu hóa
nhân vật, bằng tṛ đùa man rợ! - Hành nói tiếp -. Trọng tâm của vở kịch,
Hiền Lương thấy không, là hiện thực những năm trước khi Đổi mới, là nỗi
đau hậu chiến, là niềm nhức nhối trong sự va chạm các quan điểm ("quan
điểm" cũng làm méo mó sự thật lịch sử!), sau cuộc chiến tranh một trăm
mười bảy năm (1858 - 1975).
... Mẩu chuyện khi hai
người ngồi dưới bóng ngọc lan ở cổng phụ của chùa lại trở về trong trí nhớ
Hiền Lương chiều nay.
Hiền Lương buồn và tiếc
không t́m gặp được ông Hiệu Điên. Cô lặng lẽ một ḿnh ngồi nhớ về Hành,
những câu nói của anh, nh́n xuống mặt sông lấp lóa nắng chiều. Hiền Lương
thở dài.
Cô nghĩ, cuộc sống thật
mệt mề, đa đoan! Muốn xông vào đời, hiểu đời để sáng tạo, để có chút ǵ
góp phần làm đẹp hơn cuộc đời, cũng chẳng phải không khổ tâm. Nhà thơ
không phải là kẻ ngây thơ mà là đứa trẻ thơ đại trí. Họa sĩ cũng vậy, phải
đọc, phải t́m hiểu tất cả. Cô sợ hăi khi chuốc vào ḿnh những đa đoan,
phức tạp ấy - mặt tối và mặt sáng của mọi thực thể tinh thần lẫn vật chất
trong đời. Nhưng đấy là nghiệp dĩ nghệ sĩ, biết làm sao được! “Những ǵ
thuộc về con người đều không xa lạ với tôi” - câu châm ngôn Mác thích!
Một chiếc ghe nhỏ chở
chú bé cầm sào, đầu ngọn sào buộc chùm lá, đang chầm chậm xuôi sông. Phía
trước ghe là đàn vịt vừa bơi vừa rúc mỏ xuống nước t́m mồi.
Chiều xuống rồi. Hiền
Lương thấm thía nỗi buồn của buổi chiều quê nội, bên ḍng sông vĩ tuyến
mười bảy này.
Bỗng dưng cô cảm thấy
ḿnh đê mạt, rởm đời khi nghĩ đến chuyện đê mạt, rởm đời. Con người là Con
Người, khi biết làm, nỗ lực làm nên giá trị của bản thân, được đánh giá,
nh́n nhận qua giá trị ấy -. Cô nghĩ -. Chính định kiến đời biến t́nh cảm
cô thành bẩn!
Hiền Lương mỉm cười,
chợt thấy đă hơi khùng khi cứ măi ngồi một ḿnh bên bờ sông thế này. Nhưng
h́nh ảnh, dáng dấp thiên tài Nguyễn Du lơ láo, mỗi lời mỗi dạ dạ, vâng
vâng, với câu nói, không phân biệt kẻ Bắc, người Nam, Đàng Trong, Đàng
Ngoài, của Gia Long, cứ ám ảnh cô. Hiền Lương thấy ḿnh đa đoan thật. Cô
có cảm giác hơi khinh ḿnh. Dưới triều Mạc tiếm ngôi và hèn hạ đến mức vô
liêm sỉ (Mạc Đăng Dung tự trói, quỳ gối, cắt đất dâng cho Tàu), cụm mây
trắng Bạch Vân kia, biểu tượng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tiêu dao, phiêu bồng
rất vô ưu, thanh thản, mặc dù dấn thân vào tục lụy, đa đoan, thật đáng
kính biết bao với vẻ cao thượng của nó?! Một đứa bé đen đúa, cháy nắng,
ung dung tự tại cỡi trâu về nhà trên đường làng khiến cô liên tưởng đến
Lăo Tử, vị trích tiên vẫn cứ làm tiên, mang tâm hồn trẻ thơ, dẫu mới lọt
ḷng đă già cấc. Khung cảnh trước mặt như một ảo ảnh, khiến cô thấy bờ
sông Bến Hải nở đầy hoa anh túc nha phiến, thứ nha phiến của tâm hồn và
trí tuệ? Hiền Lương mỉm cười bước về nhà. Nụ cười rất hư vô - vô vi, vô
công, vô danh?... Như vua Hùng, như Thánh Gióng, trong lĩnh vực hội họa?
Chỉ lưu danh trong tổ chức Hội để chịu trách nhiệm?... - Hiền lương tự hỏi
và cơ hồ hỏi ḍng sông Bến Hải.
2
Đêm đến, Hiền Lương cứ
tiếc măi, không kịp hiểu thêm ông Hiệu Điên, nhưng cô cảm thấy ḿnh đă quá
mệt mỏi, mệt mỏi đến ră rời. Mở trang sách, cô ôm đầu suy nghĩ dưới ngọn
đèn ống, thỉnh thoảng nh́n ra vườn trăng. Hiền Lương không thể đọc được
ḍng nào và cô cũng chẳng muốn đọc. Nhưng cô không thích ai nh́n thấy cô
đang đắm ḿnh vào suy tưởng như một kẻ dở hơi, thẫn thờ.
Cô lại nhớ Hành, những
mẩu chuyện vừa nghiêm túc vừa bông đùa anh đă nói với cô...
... - Ông Hiệu Điên có
sưu tầm được một Sáng thế kí rất hay.
- Kinh Thánh hay truyện
cổ dân gian, như thần thoại Thần Trụ Trời, Bàn Cổ, Đẻ Đất Đẻ
Nước...?
Hành cười, nh́n Hiền
Lương:
- Có thể ông ấy sáng tác
từ sự chế biến, dung hợp lại, nhưng cứ bảo là sưu tầm.
- Kể cho em nghe đi. -
Hiền Lương mở to mắt, đợi chờ.
- Thần thoại này hơi dài.
Cố gắng lắng nghe, đừng sốt ruột... Thưa em, chuyện rằng, - Cả hai bật
cười -, khởi thủy vẫn là Lời. Khởi thủy của sự sống trên trái đất này,
không chỉ là A-đam, E-va và muông thú, cỏ cây trong vườn địa đàng nhỏ bé.
Trời vốn là Đấng Vô tính đă sáng tạo ra thế giới với nhiều thủy tổ, nhiều
họ tộc trên khắp hành tinh này. Muôn loài chúng sanh khởi thủy đă rất văn
minh, đă có luân lí rất cao mang tính chủ thể sáng tạo là chí nhân, chí
trí, chí dũng của Đấng Toàn năng. Đạo đức học, khoa học về huyết thống rất
tuyệt đến tuyệt đối. Tất cả sinh vật, kể cả cây cỏ, vi sinh, côn trùng...,
đều sống có trật tự xă hội, rất b́nh đẳng. B́nh đẳng giữa tất cả các sinh
vật! Hai yếu tố căn bản là ăn và truyền giống đă cực ḱ văn minh, rất khoa
học, rất nhân đạo. Tất cả chỉ ăn không khí, thở không khí, uống nước cam
lồ không có vi sinh vật, hoặc chỉ ăn quả, gieo lại hạt có mầm sống trong
trật tự quy định hoặc có thể uống sữa và ăn các sản phẩm từ sữa, ăn thêm
trứng sinh vật, không có sự sống. - Hành ngừng lại, mở một ngoặc đơn trong
lời đang nói -. (Bây giờ, ngoài trứng gia cầm, theo luật tự nhiên không
thụ tinh, c̣n có trứng công nghiệp, cũng theo luật tự nhiên không thụ tinh,
nhưng đạt năng suất cao trong sản xuất). - Hành nói tiếp -. Mọi sinh vật
thuở khởi nguyên ấy không có khả năng phạm tội - không có tham, sân, si.
Truyền giống là sự nhân lên từ một tế bào của mỗi sinh vật, đúng độ tuổi
trưởng thành. Sinh vật vốn vô tính. Trời cho mọi sinh vật được tự do. Và
bi kịch trần gian bắt đầu từ lúc chính loài người cùng muôn loài sáng tạo
nên tham, sân, si! Cần nhấn mạnh là Trời không treo trái cấm thử thách,
chẳng có con rắn nào nanh nọc cám dỗ, rủ rê, bởi Trời không thể không chế
ngự được quỷ, mà Trời chẳng sáng tạo ra quỷ làm ǵ. Chính v́ chúng sanh
tất thảy, nên địa đàng trái đất hóa thành địa ngục trần gian, theo luật
nhân quả. Bây giờ, ở cuối thế kỉ hai mươi này, trên tinh thần khoa học,
chúng ta thử quan sát và suy nghiệm về địa ngục trần gian, đặc biệt là về
hai vấn đề nghiêm trọng nhất: ăn và truyền giống, của tất cả các sinh vật,
từ thực vật đến động vật, từ động vật cấp thấp đến động vật cấp cao... để
từ đó, chúng ta thấy được tính chất bi đát và khủng khiếp, có thể nói là
kinh tởm nữa, của sự sống, của mọi sinh vật. Đó là chưa nói đến vận động,
biến chuyển gây tác hại khôn lường của vật thể khác - phi sinh vật (đất,
đá, gió, lửa...)... Đấy, kết quả của tự do tham sân si !
Hiền Lương cười nghi ngờ:
- Tự do độc hại vậy
sao?!
Hành hơi lúng túng, vội
kể tiếp:
- Theo ông Hiệu Điên, lẽ
ra, từ sau khi chúng sanh muôn loài tự tiện, lạm dụng tự do, sáng chế ra
tham, sân, si, phải có luật trời. Sinh vật nào phạm tội là “chết” ngay.
“Chết” là bị giải giao về luyện ngục để cải huấn, nếu tốt sẽ cho “luân
hồi, tái sinh”, nghĩa là được phóng thích về trần gian lại. Không ai thoát
khỏi mắt trời, v́ Trời ở khắp mọi nơi, mọi lúc. - Hành ngừng lại, phác một
cử chỉ rất kịch để Hiền Lương biết anh đang đóng tuồng theo trường phái
Béc-tôn Bơ-rét, và để Hiền Lương giải lao bằng một chuỗi cười trong vắt.
Hành tiếp:
- Nhưng sau sai lầm là
đă ban cho chúng sanh tự do, thứ tự do sáng chế ra cái ác, cái tội lỗi,
cái u mê..., Trời lại phạm sai lầm thứ hai, là t́nh thương vô nguyên tắc,
cho kẻ phạm tội cứ sống nhơn nhơn giữa chúng sanh, làm lây nhiễm, làm mọi
kẻ trơ ĺ với cái ác... mặc dù Trời biết tất, biết rơ từng hành vi, từng ư
nghĩ của mỗi sinh vật, từ... vi sinh đến con người. Theo luật nhân quả
khách quan, địa đàng trái đất hóa thành địa ngục trái đất, từ thuở đă xa
xưa, giai đoạn mà chúng ta quen gọi là "thời nguyên thủy". Nay, có khá
hơn, nhưng c̣n lâu chúng sinh muôn loài mới phấn đấu xây dựng lại được địa
đàng trái đất... Xem ra, sự phấn đấu ấy cũng thuộc chủ nghĩa lạc quan...
Hiền Lương mỉm cười:
- Vâng, chúng ta phải
lạc quan, nhân loại phải lạc quan... Nhưng sự sai lầm của Trời mới thánh
thiện và cao cả làm sao!
- Chứ sao! Trời mà lị
(lại)! - Hành cười vang.
Hiền Lương nh́n Hành:
- Vấn đề là giải quyết
hậu quả của thứ tự do, thứ t́nh thương vô nguyên tắc, bằng luật trời,
“chết - tái sinh”.
Hành thích thú nghĩ, chỉ
c̣n tự do, t́nh thương và luật. Anh cười:
- Đúng! Đúng! Hiền Lương
quả là chí thánh. Đấy, như vậy, Giê-hô-va là quỷ, bởi sự ngộ nhận về Trời
của người Do Thái cổ. Trời như ông Hiệu Điên mới đúng.
- Kinh Thánh, ngay Sáng
thế kí cũng bị sa-đích mà!
- Ừ nhỉ! Ừ hè!... Vấn đề
c̣n lại là: cứu rỗi bằng cách nào xưa nay? Một là, theo cách của Phật:
Phật khuyên ăn chay, thiền định... Hai là, theo cách của Chúa: Chúa hạ
ḿnh dưới tầm loài người để loài người, và chỉ loài người thôi, bớt mặc
cảm, rồi hứa hẹn một Ngày phán xử cuối cùng, Thiên đàng trên trời... Ba
là, không biết của ai: Mỗi người phải là một Đấng Cứu thế theo khả năng
của ḿnh (các ngành nghề đủ các lĩnh vực), chú trọng khoa học - kĩ thuật.
Cách thứ ba hẳn của Mác!
Hiền Lương suy nghĩ.
Hành cũng nghĩ ngợi về những ǵ ḿnh vừa nói. Hiền Lương ngẩng lên nh́n
Hành:
- Phạm tội trong tư
tưởng, từng ư nghĩ, hoặc gây ra tội lỗi bằng hành vi, là “chết” ngay.
Nhưng có nhiều, rất nhiều tội ác tày trời, tác hại c̣n hơn thiên tai (núi
lửa, lũ lụt, băo táp...), đồng thời có quá nhiều ư tưởng xấu xa, đồi bại
của nhiều người, quá nhiều! Sao họ vẫn sống nhơn nhơn? Điều đó chứng tỏ
“Trời ở khắp mọi nơi mọi lúc” là sai, là không có Trời. Và bao nhiêu oan
khốc, oan uổng!...
- Anh nhớ không lầm th́
chính Đề-cạc (Descartes), một triết gia duy lí, đă thí nghiệm bằng cách
cân một người lúc hấp hối và sau khi chết để xem trọng lượng có thay đổi
không, và để xác định linh hồn nặng bao nhiêu gam. Hồi ấy, chưa có cân
điện tử và máy móc điện toán để đo sóng sinh điện. Liệu có linh hồn không?
Liệu có thế giới linh hồn, xă hội linh hồn không? Chính anh đôi khi cũng
cần ảo tưởng hoặc cần hi vọng siêu h́nh, và đă thử h́nh dung ra một thế
giới, xă hội của tỉ tỉ tỉ linh hồn, cái ngă siêu linh đang sinh hoạt như
chúng ta...
... Bây giờ, ngồi trước
cuốn sách mở, Hiền Lương thấy ḿnh lại lẩm cẩm mất rồi. Sáng thế kí của
ông Hiệu Điên sưu tầm đâu đó chưa giải quyết được, khẳng định rơ sự hiện
hữu của Trời. Người ta cứ măi nhận thức, giải thích bằng trí tưởng tượng,
theo tŕnh độ luân lí học và khoa học tự nhiên của thời ḿnh, của cá nhân
ḿnh. Người ta lấy tiêu chí chân, thiện, mĩ của con người để gán cho Trời.
Mỗi thời đại, mỗi dân tộc, nhất là thời không có phương tiện thông tin tầm
xa, cứ lí giải theo cách của họ. Đối với người Do Thái cổ, Đức Chúa Trời,
theo họ, như trong Kinh Thánh, đă là chí nhân, chí trí, chí dũng. Mỗi dân
tộc đều có hạn chế cụ thể - lịch sử. Tất cả Kinh Thánh đều là sản phẩm của
con người, chẳng phải là pho sách được mặc khải ǵ cả!... Nhưng, nguy cơ
của thế giới hiểu ra không có Trời?
Dẫu là vậy, mỗi con
người, mỗi sinh mệnh đều vẫn có linh hồn, cái ngă siêu linh, tồn tại ngay
cả sau khi đă chết. Với niềm hi
vọng, mỗi người, mỗi sinh mệnh đều tu nhân tích đức, làm điều lành, tránh
điều dữ, không sa chước cám dỗ, để mang tài sản tinh thần, nhân đức ấy,
một ngày nào đó, sang thế giới, xă hội linh hồn - thế giới, xă hội của bao
cái ngă siêu linh - vẫn đang sinh hoạt như chúng ta !...
- Liệu có thật một hành
tinh âm thế nào đó không anh ? - Hôm ấy, Hiền Lương hỏi Hành.
- Chín mươi phần trăm là
không có, năm phần trăm là ảo tưởng đúng nghĩa, năm phần trăm c̣n lại là
hi vọng, đúng, hi vọng có thế giới, xă hội linh hồn ở một hành tinh âm thế
nào đó, thuộc một thiên hà nào đó, không thể biết được, không cách ǵ liên
lạc được. - Hành lại mỉm cười. - Năm phần trăm hi vọng, đủ để chống chỏi
với chủ nghĩa hư vô. Cảm giác hư vô rợn lạnh lắm!
- Chỉ chừng đó thôi,
cũng đă có nhiều người ở nhiều thời “bỏ h́nh bắt bóng”. Họ tự sát một cách
có ư thức để rời bỏ hành tinh dương thế này, t́m đến hành tinh âm thế kia.
Hiện nay, ở Mỹ, có giáo phái Cổng Trời, tổ chức tự sát tập thể cho tín đồ.
- Hiền Lương nói -. Ở nước ḿnh, đồng bào ḿnh tốn bao công sức, tiền của
cho vàng mă nhảm nhí, lẽ ra chỉ để tượng trưng thôi!
- Nhảm nhí thật... Người
ta “tử v́ đạo” bằng cách tự sát như thế sao? Không, đó là cái chết tự
nguyện kia mà! Anh biết Thiên Chúa giáo có luật cấm tự sát.
- Đúng rồi. Sao anh hiểu
kĩ Thiên Chúa giáo vậy? - Hiền Lương nh́n ra xa, cô nói -. Có những tín đồ
tự sát một cách vô ư thức bằng cách mượn tay người khác giết ḿnh chăng?
Quá khích để bị tử h́nh chẳng hạn?
Hành khẽ rùng ḿnh. Cả
hai im lặng nghĩ ngợi.
- Thôi, đừng “bỏ h́nh
bắt bóng” nữa. Hăy yêu lấy Quả đất này, Đất nước này. - Bất giác, Hành
quay mặt qua, nh́n vào đôi mắt Hiền Lương -. Sao em ra quê hương Quảng Trị
mà không đi thăm thánh địa La Vang?
Hiền Lương lắc đầu, mỉm
cười, vẫn im lặng. Một lúc khá lâu, cô khẽ nói :
- Lúc c̣n nhỏ, Hiền
Lương từng nuôi mơ ước được có một lần hành hương ra thánh địa La Vang. Lạ
một điều là khi lớn lên, lúc đă học cấp ba, em chỉ mơ ước có dịp ra thăm
cầu Hiền Lương, chiếc cầu em mượn tên của nó. Nhưng thôi, anh nói tiếp về
linh hồn, cái ngă siêu linh đi.
- Nhờ lao động,
vượn-người thành người, và cũng nhờ lao động mới có linh hồn, cái ngă siêu
linh.
Hiền Lương chẳng hiểu
sao cô cứ lẩm cẩm, trăn đi trở lại vấn đề này. Cô quẫn trí rồi chăng? Ḿnh
quẫn trí rồi chăng? - Cô tự nhủ thầm. Cô mong khoa học - kĩ thuật sẽ sản
xuất mắt trời điện tử đầy rẫy! Hiền Lương nh́n ra vườn trăng sau cửa sổ,
mở ra phía hậu nhà. Trăng đẹp quá, lung linh, diệu vợi. Chẳng lẽ cứ để trí
tuệ ḿnh già nua thế này? Thôi th́ già nua để hồn nhiên lại! Dẫu sao, Hiền
Lương mới hai mươi hai tuổi. Hiền Lương nghĩ, mỉm cười một ḿnh trong ư
tưởng: Quả đất sẽ đến lúc mỗi người kiểm tra, theo dơi cả thế giới, cả thế
giới theo dơi, kiểm tra mỗi người, kể cả nguyên thủ!
3
Tắm sông xong, tóc cũng
đă khô, cũng gần tám giờ sáng rồi, Hiền Lương xin phép mẹ và chú thím để
qua nhà ông giáo Hiền. Cô muốn t́m mấy bài báo về ông Hiệu Điên, mượn sáu
tập thơ của người bạn anh Hành để về đọc.
Hiền Lương bước vào sân,
cố ư đi chậm lại để ngắm một lần cuối hai cụm h́nh tượng bằng chè kiểng
của ông giáo, không phải với cái nh́n như lần đầu mới thấy nữa. Một cảm
tưởng rơ rệt trong cô: những tác phẩm ấy rất đơn sơ và rất sâu sắc. Bước
vào nhà, Hiền Lương thấy ông giáo Hiền đang ngồi xem truyền h́nh. Có lẽ
mải xem, và bởi âm thanh từ máy, ông không nhận ra tiếng bước chân cô từ
ngoài ngơ. Bây giờ, bóng cô che khuất khung cửa nắng, ông quay lại, mừng
rỡ.
Ông giáo đáp lại tiếng
chào của Hiền Lương khi kéo ghế mời cô:
- Chào cháu. Ngồi xuống
đây chơi. Chiều qua, và cả tối hôm qua, ông có ư đợi cháu như Hành có dặn,
nhưng đợi măi không thấy.
Hiền Lương thưa:
- Dạ, cháu có ư hỏi mượn
mấy bài báo với sáu tập thơ. Nhưng... cháu chưa định giờ nào sẽ qua làm
phiền ông t́m và cho mượn.
Ông giáo Hiền cười:
- Đó là ngỡ cháu sẽ qua
từ chiều hoặc tối hôm qua...
Ông giáo rót nước mời
Hiền Lương với một nụ cười. Sau đó, ông bước tới chỗ đặt máy truyền h́nh,
vặn giảm đến mức tối đa nút chỉnh âm.
Ông giáo nh́n Hiền
Lương:
- Cháu có vẻ hơi bần
thần, mệt mỏi. Về quê nghỉ hè mà làm việc quá mức rồi đó! Mệt mỏi quá sẽ
đuối nét cọ mất!
Hiền Lương thú thật:
- Cháu hơi tham công
tiếc việc, v́ không thể không vẽ, không vẽ bây giờ th́ chẳng biết khi nào
vẽ được. Với lại, quê ḿnh có lắm điều hay đến không ngờ. Cơn say đam mê,
điên mê sáng tác...
Rót thêm nước chè vào
hai chén, ông giáo cười:
- Cháu mới gặp một số
người già và nghèo. Làng ḿnh những ai tài cao, sức tốt, giàu có đều chẳng
thèm ở đây.- Ông nh́n Hiền Lương để đọc phản ứng trên nét mặt cô -. Làng
này c̣n có cấp tá, sĩ quan cao cấp ngụy và cách mạng, ông nghè, ông cống
ngụy và cách mạng. Ở đây, họ chẳng biết làm ǵ, mặc dù họ vẫn rất yêu quê
hương. Họ ở Hà Nội, ở thành phố Hồ Chí Minh...
- Dạ, cháu có biết qua
lời anh Hành, thím Cận...
Hiền Lương nh́n màn
h́nh, cô muốn thư giăn, bớt nặng nề và bớt ôm đồm, v́ ngày mốt phải vào
B́nh Dương lại rồi. Cô nói:
- Thưa ông, tại sao
giọng Quảng Trị nếu đọc chuẩn như xướng ngôn viên vẫn bị bạc đăi đến vậy
ạ? - Thấy ḿnh nói hơi bóng bẩy, Hiền Lương vội chữa -. Dạ, sao giọng Hà
Nội lại độc chiếm Đài Tiếng nói và Truyền h́nh Việt Nam. Và giọng Sài
G̣n...
Ông Hiền cười:
- Người ta không tuyển
diễn viên kịch nói người Khu Bốn cũ nữa kia! Thật ra có bốn giọng đặc
trưng: Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Nam bộ. Giọng nào cố gắng đọc
thật chuẩn theo chữ quốc ngữ, thứ chữ kí âm, đều hay. Các đài trung ương
đều phải đọc bằng bốn giọng đặc trưng ấy. Thẩm thức c̣n do thói quen. Đa
thanh là biểu hiện của sự phong phú. Đúng, giọng Khu Bốn cũ bị phân biệt
đối xử, bị bạc đăi, - Ông giáo cười thật gịn -, trong khi các lănh tụ số
một đều phần lớn là người Khu Bốn cả, chưa kể mấy trăm năm triều Nguyễn,
và thiên tài ngôn ngữ thơ, ca cũng vậy... Ngụy cũng vậy, cách mạng cũng
vậy... - Ông giáo mỉm cười - ... Nước nào cũng chọn giọng thủ đô làm
chuẩn. Chữ quốc ngữ ở giai đoạn hoàn chỉnh, đầu thế kỉ hai mươi này, được
kí âm theo giọng Hà Nội. Nhưng chuẩn chưa hẳn là gốc. Thủ đô dễ pha tạp...
- Nguyễn Văn Thiệu... -
Hiền Lương hơi hổng.
- “Trùm ma túy” Thiệu
cũng người Miền Trung, nhưng gốc Phan Rang, không phải Khu Bốn cũ.
- Sao lại “trùm ma túy”,
thưa ông?
- Đó là dùng lại chữ
của tạp chí Đối Diện, tạp chí do một nhóm linh mục độc lập chủ nhiệm và
chủ biên... Trước bảy lăm, ở Sài G̣n, có đăng Bản cáo trạng số một tố cáo
Nguyễn Văn Thiệu là trùm đường dây ma túy trong tạp chí này.
Như bất ḱ câu chuyện
phiếm nào, hai ông cháu vui vẻ sa đà, từ chuyện nọ xỏ qua chuyện kia.
- Nhưng vua Hùng có gốc
là Phú Thọ. Đó là thủ đô đầu tiên, thủ đô gốc. Lẽ ra phải lấy chuẩn ở đó.
Nhưng nói chung, giọng Bắc bộ vẫn giọng gốc chứ, thưa ông? Đúng hơn, vua
Hùng gốc Rồng, miền biển Bắc bộ, nhưng bấy giờ là thời hậu ḱ mẫu hệ, c̣n
dấu vết mẫu hệ, con cả theo Mẹ Tiên ở núi, được làm vua...
- Thật ra, giọng Khu Bốn
chỉ bốn thanh, v́ ngă, nặng, hỏi hơi trùng nhau mất rồi. Ngôn từ lại nhiều
tiếng Việt cổ... Cứ nghiệm thử xem, có bao nhiêu ca sĩ th́ có bấy nhiêu
chất giọng, thậm chí anh em ruột chất giọng cũng khác nhau. Do đó, chính
sự khác nhau tí ti ấy đă xác định không có ai giống ai về bộ phận phát âm
đến mức mười mươi... Chất giọng, âm sắc Khu Bốn do nhóm người di dân đầu
tiên phát âm theo cơ chế sinh lí riêng của bộ phận phát âm của từng người
trong họ, dần dần giọng nói chung lệch đi, tổng ḥa lại thành một giọng
địa phương Khu Bốn? Ban đầu chỉ khác một tí ti, dần dần, khác hẳn? Nguyên
nhân chính có lẽ là bởi sự giao lưu hạn chế ngày xưa. Và do lai tạp tại
chỗ? Dân Bắc bộ rơ ràng bị lai, Hán hoá, và theo thời gian mà lệch xa âm
cổ? Có khi, tâm lí người ra đi khỏi đất Tổ lại bảo thủ hơn người ở lại, họ
phát âm gần âm cổ hơn, giữ nhiều từ cổ hơn. Cái này cần có sự nghiên cứu
sâu của các nhà ngữ âm học. Dẫu sao, thực trạng tiếng Việt suốt mấy trăm
năm nay là có bốn giọng đặc trưng. Hăy cố gắng phát âm theo chữ kí âm, tức
là chữ quốc ngữ, đầu thế kỉ vốn lấy chuẩn là giọng Hà Nội, để tránh t́nh
trạng dần dần nói một đàng viết một nẻo như tiếng Anh và nhiều thứ tiếng
khác. Hăy làm chủ sự vận động của ngôn ngữ, ngữ âm. Ở nhà trường, cần có
nhiều tiết tập đọc, luyện phát âm đúng chuẩn theo chữ quốc ngữ, nhưng vẫn
giữ âm sắc địa phương cho đa dạng, phong phú. Ngày xưa, nói chung, người
ta chưa biết làm chủ nên mới tùm lum như thế. Có nhiều dân tộc cùng một
thứ tiếng, ở xa nhau, giao thông liên lạc khó, dần dần không hiểu nhau
nữa. Tính thống nhất của một dân tộc là ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phải tất
cả, nhưng cơ bản nhất, quan trọng nhất, nghe Hiền Lương!
Hiền Lương bỗng hóa đứa
bé học tṛ. Cô líu ríu “dạ” trước giọng nói đậm tính nghề nghiệp sư phạm
của ông giáo già, giọng nói như giảng bài, chính ông cũng không ngờ. Thói
quen giảng bài đă thâm nhiễm trong ông tự mấy chục năm nay. Hiền Lương
cũng vô thức bị thôi miên thành đứa trẻ. Vâng, tiếng Việt với bốn giọng
đặc trưng, lấy chuẩn cứ là chữ quốc ngữ, chứ không phải chuẩn cứ độc nhất
là giọng Hà Nội. Giọng Hà Nội nay ít nhiều cũng khác xưa.
Ông giáo mỉm cười, bảo
sẽ đọc cho Hiền Lương nghe một bài thơ của Hồ Vi, một nhà thơ có quê gốc
là Quảng Trị, chất thơ cũng đặc sệt Quảng Trị, vốn là Vệ quốc quân thời
chín năm kháng chiến chống Pháp. Đó là bài Lời quê, được sáng tác vào năm
1950. Ông đứng dậy, bước tới kệ sách, lấy ra một tuyển tập thơ khá dày.
Trong khi ông lật giở các trang để t́m, Hiền Lương thấy ở b́a màu nhũ bạc
nổi lên mấy chữ: Thơ Miền Trung thế kỉ XX, Nxb. Đà Nẵng, 1995. Đôi mắt và
khoé môi ông giáo Hiền chừng như sáng lên nét cười khi đă t́m được Lời
quê, bài thơ gắn liền với kỉ niệm của thế hệ ông thời trai tráng.
Ông nói, ông sẽ đọc theo
cách phát âm Quảng Trị. Hiền Lương đang chờ đợi lắng nghe, nhưng chưa phải
đọc thơ, ông giáo hỏi:
- Cháu Hiền Lương đă
biết bài này chưa? - Thấy Hiền Lương khẽ lắc đầu, ông nói tiếp -. Trong
bài có một số từ địa phương, như "bưa" có nghĩa là vừa, là chán chê;
"ngái" cũng có nghĩa là xa; "nỏ có" có nghĩa là không giàu có.
mấy bữa ni rồi trời
thiếu nắng
chừng chưa bưa lụt,
nước c̣n cao
khi hôm bộ đội hành
quân tới
trấn thủ dầm phơi
chật cả sào
chị ơi! Đem dũi ra
ngoài ruộng
kiếm ít đam cua, chút
của đồng
thêm đôi ba miếng,
anh em đỡ
của [cảnh?] nhà quê
kiểng buổi thu đông
bớ anh nội vụ, khoan
đi chợ
xa ngái, đường trơn,
bấm cực chân
xuồng bên chị Mót
buôn tơi nón
anh nhảy mà đi được
nửa chừng
thương anh, nỏ có,
cầu anh mạnh
anh nện thằng Tây bể
sọ dừa
thương anh cơ khổ, mà
nghèo quá
thiếu rơm lót ổ lạnh
lùng khuya.
Bài thơ đúng như nhan
đề, là những lời quê chân chất và đậm đà t́nh nghĩa, được thể hiện qua âm
hưởng giọng đọc rất Quảng Trị một cách cố ư của ông giáo, để minh hoạ cho
những điều ông bàn về ngôn ngữ. Hiền Lương cảm thấy niềm xúc động như dâng
lên trong ngực ḿnh. Có ǵ cảm động hơn, khi một người dân bạch đinh
thương những anh bộ đội Vệ quốc, nhưng chẳng có ǵ để giúp, thương các anh
lính đánh Pháp quá cơ khổ, mà ḿnh cũng quá nghèo, đến nỗi thiếu cả rơm
lót ổ trong khuya gió bấc buốt lạnh. Nhưng đó không phải hoàn toàn là lời
than. Có chút ǵ tưng tửng một cách mộc mạc, lại chắc nịch, mạnh mẽ, nhưng
vẫn rất xót xa, chân thành, da diết. Quả thật, rất Quảng Trị không chỉ ở
ngôn từ, mà Quảng Trị tận gan ruột. Bất giác, cô buột miệng:
- Thưa ông, chắc ông c̣n
nhớ bài Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy, được sáng tác cũng vào thời điểm chín
năm kháng chiến chống Pháp đó?
- Làm sao quên được! Bản
nhạc “Bà mẹ Gio Linh”, c̣n có tên là Bà mẹ nuôi. - Ông giáo Hiền
nhíu mày cố nhớ -. H́nh như bài hát ấy được viết vào năm 1948, lúc Phạm
Duy cùng đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Quảng Trị này và khắp cả Liên
khu Bốn. Phạm Duy! Rất tiếc là... ông ta đă phản bội cách mạng, toan tính
sửa ca từ để phủ nhận mấy năm kháng chiến, sau khi vào Sài G̣n theo Mỹ -
ngụy. Nhưng thôi, có một nhà văn, đó là Nguyễn Trọng Văn, ở tại Sài G̣n,
đă khai tử Phạm Duy ngay khi ông ta c̣n sống, bằng một cuốn sách: "Phạm
Duy đă chết như thế nào?"... Có điều, dẫu sao, Bà mẹ Gio Linh vẫn bất
hủ.
Bỗng dưng, thật bất ngờ,
ông giáo Hiền khẽ hát:
mẹ già cuốc đất trồng khoai
nuôi con đánh giặc đêm ngày
cho dù áo rách sờn vai
cơm ăn bát vơi bát đầy
nhà th́ nó đốt c̣n đây
khuyên nhau báo thù phen này
mẹ mừng con đánh giặc hay
ra công xới vun cày cấy
con đi dân quân
sớm tối vác súng về
mẹ già một con
yêu nước có kém chi
đêm nghe xa xa
nghe tiếng súng oán thề
mẹ nguyện cầu cho
con sống rất say mê
mẹ già tưới nước trồng rau
nghe tin xóm làng kêu gào
quân thù đă bắt được con
mang ra giữa chợ bêu [cắt?] đầu
nghẹn ngào không nói một câu
mang khăn gói đi lấy đầu
chiều về trên xóm buồn teo
xa xa tiếng chuông chùa gieo
tay nâng nâng lên
rưng rức nước mắt đầy
mẹ nh́n đầu con
tóc trắng phất phơ bay
ta yêu con ta
môi cắn bết máu cờ
nụ cười hồn nhiên
đôi mắt ngó trông ta
mẹ già nấu nước chờ ai
đêm đêm súng nổ vang trời
giật ḿnh em bé mồ côi
khăn tang cũng hoen tiếng cười
đoàn người kéo đến nhà chơi
khơi vui bếp lửa tơi bời
mẹ già đi nấu nồi khoai
bưng lên khói hương mờ bay
khi trông con nuôi
xúm xít dưới túp nhà
mẹ nh́n đàn con
thương nhớ đứa con xưa
con con con ơi
uống hết bát nước đầy
ngày một ngày hai
con nhớ ghé chơi đây...
Đó là “Bà mẹ Gio
Linh”, có người con trai đi kháng chiến, bị giặc Pháp bắt được. Chúng
chém đầu anh du kích ấy, bêu đầu anh giữa chợ, nhằm răn đe những ai c̣n
chống Pháp! Mặc dù chất giọng của ông giáo Hiền đă khàn đục, khi hát lại
càng lộ rơ hơn mức độ khàn đục ấy, nhưng Hiền Lương không thể không trào
nước mắt. Lúc ông chấm dứt bài hát, cô muốn nói một câu ǵ đó để chia sẻ
cảm xúc với ông, song lồng ngực cứ nghèn nghẹn, cô không thể nói được lời
nào.
Vuốt nhẹ hai giọt nước
mắt, lặng người một lúc với những h́nh ảnh đau thương c̣n lưu trong kí ức
mà ca từ ghi lại, ông giáo Hiền muốn trở về với thực tại, những ngày gần
đây. Ông nâng tách nước, nhấp một ngụm, cố nở một nụ cười:
- Bữa ăn cơm chay trên
chùa vui chứ, Hiền Lương?
Cũng đột ngột trở về với
thực tại, Hiền Lương mỉm cười. Ngập ngừng một thoáng, cô thưa:
- Dạ, quá hay. Có lẽ
cháu sẽ truyền bá tư tưởng Bến Hải vào trong Nam. Đạo của ông rất Nam bộ.
- Đúng, ông có học tập
tinh thần Nam bộ.
- Thưa ông, vậy quốc lễ
là giỗ vua Hùng và Thánh Gióng chứ ạ?
Ông giáo cười, bắt chước
khẩu ngữ thời thượng Sài G̣n nhưng pha vào từ địa phương:
- “Hổng dám mô!”... Cũng
lạ ḱ mà không lạ ḱ là các nước khác c̣n... Lễ Giáng sinh!
Hai ông cháu cười vang,
vui vẻ. Và câu chuyện cứ trôi mông lung theo khe mạch bất ngờ của nó.
Thật ra, tiếng cười của
hai ông cháu là khá vô t́nh, chỉ v́ nguyên nhân duy nhất là bất chợt ông
giáo nhại giọng địa phương và khẩu ngữ thời thượng trong ấy. Ông Hiền tắt
vội tiếng cười của ḿnh, tự trách ḿnh hơi bất nhă. Ông Hiền chợt liên
tưởng: Lễ Giáng sinh ở Phương Tây, có lẽ đó là một tập quán, mặc dù ư
nghĩa tôn giáo nhạt dần đi? Mặc dù trong hiện tại, thế lực tôn giáo -
chính trị của Thiên Chúa giáo... vẫn c̣n mạnh, nhưng phải chăng dần dần Lễ
Giáng sinh ở Phương Tây cũng giống như Tết Đoan ngọ ở nước ḿnh, vốn là
ngày giỗ Khuất Nguyên, nhưng quá lâu rồi chẳng c̣n mấy ai nhớ tới nhà thơ
Khuất Nguyên của Trung Hoa trong ngày Tết Đoan ngọ nữa? Và, c̣n lễ...
hoàng gia!?... Cách mạng tư sản với các giá trị tự do, b́nh đẳng, bác ái
và dân chủ, dân quyền, nhân quyền đă hơn hai trăm năm, sao vẫn c̣n xem Tổ
quốc như tài sản cha truyền con nối của một ḍng họ hoàng gia?! Nhưng ông
trở lại vấn đề quốc lễ...
- Cái đó phải có lệnh
của Chính phủ, của Đảng. Cờ cũng vậy. Cờ đỏ sao vàng là lá cờ hiển hách
nhất lịch sử Việt Nam bốn ngàn năm
nay. Nhưng đó là cờ chế độ. Đến giờ
chừ, đến bây giờ, ông không biết cờ Tổ quốc ra sao, chừng như mỗi triều
đại có một lá cờ riêng, quốc hiệu cũng thế. Trên tất cả, duy dân tộc là
nhất quán, vĩnh hằng... Đó là nhân chuyện mà nói cho vui thật, nhưng thật
ra, vấn đề ấy rất trọng đại, nghiêm túc, không phải chuyện đùa... Phải
kiến nghị Đảng nghiên cứu và làm công việc cho triệu triệu năm sau. Cờ
trên thế giới của một trăm mấy chục nước cũng tùm lum, tùy tiện lắm. Có lẽ
vậy. Khá nan giải... Nhưng dễ! Phải xác định tinh thần dân tộc là trên
hết, trên tất cả. Con gà trống Gô-loa (Gaulois) c̣n đứng đậu ngạo nghễ
ngay trên đầu Thánh giá Giê-su nữa đấy ! Cháu đă lên thăm nhà thờ Con Gà ở
Đà Lạt rồi chứ ?...
Ông giáo ngừng lại, bâng
khuâng, lại gượng mỉm cười:
- Nhưng có lẽ cháu đang
sốt ruột muốn đọc mấy bài báo về ông Hiệu Điên? Đúng ra phải gọi là ông Lư
Văn Hiệu!
- Dạ, và sáu tập thơ của
anh bạn anh Hành.
Ông giáo đứng dậy, bước
ra sau kệ sách. Hóa ra phía sau có một tủ sách nữa.
- Hành có dặn. Ông chuẩn
bị sẵn rồi đây.
Ông giáo Hiền đặt xuống
bàn trong khi Hiền Lương khẽ cảm ơn ông.
- Và có riêng hai bài
thơ nó đánh máy vi tính, một bài từ một trong sáu tập sách này, một bài từ
bản chép tay. Nó dặn ông lưu ư cháu đọc trước. C̣n đây là mấy bài báo đă
cắt ra để sưu tập. Cháu giữ kĩ nhé. Ông Hiệu Điên chẳng giữ ǵ đâu!
Hiền Lương ngắm từng tập
một. Cô thấy vài cuốn b́a không được đẹp lắm, nếu không muốn nói là xấu,
giấy cũng thường, may là chữ khá rơ và rất rơ. Hiền Lương nói như reo:
- Vậy là cháu biết tên,
biết địa chỉ, biết mặt tác giả!
- Nó họ Trần, khác làng,
khác xă nhưng cũng thuộc huyện này. Đúng ra là họ Trần nhưng gốc Nguyễn,
nên gọi thành họ kép là họ Trần Nguyễn.
- Anh này đa t́nh nên
bạc t́nh lắm hở ông? - Hiền Lương hơi bẽn lẽn v́ ṭ ṃ, nh́n vào ba chữ
Trần Nguyễn Phan trên b́a sách.
Ông Hiền cười:
- Ai bảo? Thằng Hành đùa
đấy! Anh chàng này nghiêm túc, đàng hoàng đến khô khan trong đời sống.
Nghe đâu, mới đây chỉ đùa tếu. Nhưng từ rất lâu, đă làm thơ t́nh rất t́nh
tứ, và buồn, tuy vẫn lạc quan. Ông già rồi nhưng cũng thích đọc thơ t́nh.
Già, đọc thơ t́nh, ngỡ như đọc lại tuổi trẻ ḿnh. - Ông Hiền bỗng xa xăm.
Hiền Lương chia sẻ với
nỗi ngậm ngùi hoài niệm của ông giáo.
- Thật thế th́ rất vui!
Cháu thấy rơ là cuộc sống xô bồ cần những nỗi buồn hướng thượng.
Cô đọc lướt qua hai bài
thơ trên hai tờ giấy rời đă vàng úa. Một bài viết về Bác Hồ, một bài viết
về Giê-su mà hôm nọ Hành đă đọc và bàn với cô. Ông giáo Hiền chỉ vào bài
viết về Chúa:
với truyền thuyết
về khát vọng cứu
rỗi
“Lạc đà chui qua lỗ kim
c̣n dễ hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời”.
(MATHIƠ: 19:24; MÁC:
10:24; LUCA 18:25)
“Người đă bị người-ta
khinh-dễ và chán-bỏ, từng trải sự buồn-bực, biết sự đau-ốm, bị khinh như
kẻ người-ta che mặt chẳng thèm xem, chúng-ta cũng chẳng coi Người ra ǵ.
Chính Ngài đă lấy tật-nguyền của chúng-ta, và gánh lấy bệnh-hoạn của
chúng-ta”.
(ÊSAI 53: 2-4; MATHIƠ
8:17)
nhịp trái tim măi ban
sơ
giáo đường nhạc vút
xanh lơ sớm chiều
trầm tư, lắng tuổi xế
xiêu
ngấm trong sầu khổ đă
nhiều phúc âm
ngát thơm nguồn sáng
từ tâm
hồn em cúi xuống,
vọng thầm sóng mơ
vai oằn thập giá bao
giờ
tôi t́m Đức Mẹ đọc
thơ t́nh người
em là ngọn nến trong
tôi
xua đi bóng tối
truyền lời yêu thương
máu cứu rỗi sáng con
đường
ánh vàng Núi Sọ rung
chuông chói ḷa
xin nhân danh Đất
Trời và
nỗi Khổ Đau và Thăng
Hoa giữa Đời
nhà người thợ rất
thánh ơi
mồ hôi nước mắt muôn
thời hương bay
cơi trần gian c̣n
đắng cay
vẫn c̣n khát vọng như
ngày xa xưa
hai ngàn năm dịu gió
mưa
nắng ngời tiếng hát
bốn mùa cho nhau.
1992
- Thật ra vấn đề kết
hợp, dung hợp chủ nghĩa xă hội với Kinh Thánh chẳng có ǵ mới. Kinh Thánh,
và nhiều kinh điển của các tôn giáo khác đều ít nhiều có yếu tố gần gũi
với nguyên lí của chủ nghĩa xă hội, với lí tưởng về thế giới đại đồng.
Trong vấn đề ấy, có một vấn nạn là Kinh Thánh có bị sa-đích (nên thỏa hiệp
với đế quốc) hay không mà thôi. Không thể không kiên quyết vấn đề này: Độc
lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. - Ông giáo Hiền mỉm cười -. Chúa
Giê-su trong bài thơ này là chiến sĩ đă bị tử h́nh, đă hi sinh v́ mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xă hội đó. Nỗi khổ đau bị áp bức đă thăng hoa
giữa đời chứ không phải trên trời. Thơ ca mà! Không phải là khoa học về
tôn giáo và không phải sử học! Trần Nguyễn Phan đă tái tạo lại, hư cấu lại
từ h́nh tượng Giê-su và gia đ́nh cha nuôi - mẹ đẻ là Giê-su - Ma-ri-a
trong Kinh Thánh.
- Ông hiểu thế nào về
câu “hai ngàn năm dịu gió mưa”, thưa ông?
- Thiên Chúa giáo, khi
nó là một thực thể chính trị, phục vụ cho sự xâm lược của bọn thực dân và
cho chính nó, th́ rất thâm độc, nhưng khi nó chỉ thuần túy là tôn giáo,
th́ quả là giúp tín đồ sống lương thiện hơn. Thiên Chúa giáo xưa nay tồn
tại với hai bộ mặt, quỷ dữ và thiên thần. Những lúc dịu đi là những khi
quỷ dữ được thiên thần ru ngủ, vỗ về, hăm dọa trong chính nó... Và tùy ở
giáo hoàng... Hai ngàn năm nay chưa hề có giáo hoàng nào da vàng hoặc da
đen! - Ông giáo Hiền bật cười lớn -. Hai câu kết của bài thơ ấy, Trần
Nguyễn Phan gửi thư ra cho Hành, có viết là đă sửa lại:
“Nắng ngời tiếng hát
bốn mùa
Hai ngàn năm nếu
chẳng mưa máu Đời”.
- Dạ, cháu hiểu.
“Thập giá và lưỡi gươm” quả thật là vậy đó. C̣n Giê-su, Giê-su là con
người phàm, và chỉ vậy thôi. Cháu thấy cuối cùng, Đền thờ Tổ quốc Việt
Nam, Đền Hùng với đ́nh làng, và hai
cụm h́nh tượng Việt Nam, Thế giới của ông là hay nhất. Đó là quốc hồn
quốc túy, hiểu đúng nguyên nghĩa nghiêm chỉnh
của từ, c̣n tất cả đều là ngoại lai. Chúa của Do Thái, xin trả lại cho Do
Thái.
Ông Hiền cười. Hiền
Lương xin phép ông để về. Ông giáo tiễn Hiền Lương ra tận ngơ. Ông bảo:
- Cũng phải tiếp thu
tinh hoa ngoại lai, tiếp thu trên tinh thần Việt
Nam, v́ dân tộc chúng ta, một cách khoa
học. Cũng phải góp phần của Việt
Nam vào sự tiến bộ, ḥa b́nh, đoàn
kết của nhân loại... Phải học ngoại ngữ, cả quốc tế ngữ...
- Biết bao giờ mới làm
được chiếc cầu bắc ngang sông Bến Hải quê ḿnh, như hoài băo của ông, ông
nhỉ! Số tiền lớn lắm.
Ông giáo Hiền cười buồn,
nhưng vẫn hài hước như trạng cười:
- Chỉ c̣n cách mua vé số
xây dựng quê hương! - Ông cười vang lên nhưng rưng rưng trong khoé mắt -.
Nhưng, nếu đă có tiền, cũng c̣n phải kiến nghị và được phép của Đảng, Nhà
nước, Quốc hội... Trong thực tế quản lí hành chính, chỉ cần sự cho phép
của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng và Bộ Văn hóa - Thông tin, Tỉnh uỷ,
Uỷ ban tỉnh... - Ông giáo Hiền hiểu ḿnh đang lạc quan tếu -. Thiết thực
nhất là chỉ làm mô h́nh trong sân nhà của ông mà thôi, rồi chờ một cơ may
nào đó...
TXA.
CƯỚC CHÚ chương XI:
không có cước chú.
(
xem tiếp chương XII )