TRẦN
XUÂN AN
m ù
a
h è
b
ê n
s
ô n g
(nỗi đau hậu chiến)
tiểu thuyết
nnhà
xuất bản
1997 & 2003
TÁC PHẨM DỰ THI
CUỘC THI TIỂU THUYẾT 1998 – 2000
DO HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
TỔ CHỨC
tiểu thuyết
hư cấu
Bản in vi tính lần thứ
nhất:
1997 - 1998
Bản in vi tính lần thứ
hai
(có sửa chữa, bổ sung):
2001 [HB.1]
Bản in vi tính lần thứ
ba
(có sửa chữa, bổ sung):
25.10 - 19.12.2003
[HB.3]
Xin
tạ ơn ngọn bút,
biểu tượng của sự công chính và liêm khiết trí tuệ.
Xin
yêu thương, trân trọng và bảo vệ
từng ḍng chữ mồ hôi nước mắt
của
chất xám và trái tim.
TXA.
Khi đọc,
vui ḷng:
Không
lược bỏ một chữ,
một đoạn
nào trong tiểu thuyết.
Xin cảm
ơn.
TXA.
Vài lời thưa, trước khi
vào truyện
Cuốn tiểu thuyết Mùa
hè bên sông (hay Nỗi đau hậu chiến) này cho đến nay vẫn chưa có
giấy phép để xuất bản, mặc dù nó đă được viết xong từ tháng bảy 1997, cách
đây đă hơn sáu năm trời. Đầu tiên, Mùa hè bên sông (bản 1997) được
gửi ra Hà Nội để dự cuộc thi tiểu thuyết 1998 - 2000 do Hội Nhà văn Việt
Nam tổ chức, thông qua Nhà Xuất bản của Hội. Cuối năm 2001, tôi lại gửi
bản mới sửa chữa, bổ sung ra Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, nhưng giấy phép
xuất bản vẫn không được gửi vào. Sau đó, Mùa hè bên sông bị vùi
quên ở Nhà Xuất bản Trẻ (Tp. HCM.). Đầu quư một năm 2003, ở Chi nhánh Nxb.
Văn Học, nó cũng bị từ chối. Và cũng bị từ chối như vậy, khi cuốn tiểu
thuyết này được mang đến Chi nhánh Nxb. Văn hoá - Thông tin.
Cả bốn nhà xuất bản đều
không cấp giấy phép ra đời! Mùa hè bên sông là cuốn sách lận đận
nhất, trong khi mười cuốn sách khác tôi viết, trước và sau nó, đă xuất bản!
Tôi vẫn c̣n những bản thảo chưa được xuất bản, trong đó có cuốn, có bộ
thuộc thể loại khảo luận - phê b́nh sử học và truyện kí - khảo cứu tư liệu
lịch sử, nhưng chắc hẳn cũng không lận đận như Mùa hè bên sông.
Tôi quyết định sửa chữa
Mùa hè bên sông một lần nữa, vào quư tư năm 2003. Đây là bản thứ ba. Với
bản 2003 này, tôi cảm thấy đă thể hiện khá đầy đủ những điều cần phải viết,
mặc dù biết rằng như thế lại càng khó được xuất bản. Hiện nay, Mùa hè
bên sông 2003 đang chờ giấy phép ở một nhà xuất bản khác. Không biết
nó có được phép ra đời với một tờ giấy khai sinh đàng hoàng hay không.
Một số bạn văn thân quen
đă đọc các bản thảo Mùa hè bên sông (b.1997, b.2001, b.2003), và
chỉ góp ư một cách hết sức chung chung v́ dè dặt. Có bạn văn rất chân t́nh
bảo, cần bớt đỏ đi mới có thể xuất bản được, bởi hiện nay, những từ ngữ
được nhắc đi nhắc lại măi là gác lại quá khứ, hội nhập vào diễn tŕnh quốc
tế, kinh tế thị trường, giao lưu văn hoá, không ai c̣n bàn bạc ǵ nữa đến
chủ nghĩa xă hội, mà chỉ giới hạn lại ở mức xă hội công bằng, dân chủ, văn
minh mà thôi, nếu có cũng là kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ
nghĩa. Có bạn văn khác, cũng rất thành thực bảo, đụng đến tôn giáo, nhất
là Thiên Chúa giáo, sẽ rất gay go. Bạn văn khác nữa, thật ḷng bảo, bàn
bạc về các học thuyết, các chủ nghĩa, trong đó có chủ nghĩa Mác - Lê-nin,
theo quan điểm riêng, cũng không thuận lợi bao giờ. Và tất cả các bạn văn
đă đọc, họ đều ngạc nhiên là Mùa hè bên sông mỗi lần sửa chữa, bổ
sung cùng quyết tâm chấp nhận đối thoại, nh́n thẳng vào sự thật lịch sử và
chân lí với cái nh́n điềm tĩnh, lại càng đỏ thêm; đỏ thêm, nhưng đồng thời
lại càng đậm cá tính (quan điểm riêng quá rơ)! Rất tiếc là các bạn văn đều
góp ư chung chung, ngắn gọn, sơ sài với thái độ dè dặt như thế, không ai
bàn sâu vào tác phẩm hoặc bổ cứu ǵ thêm.
Qua đó, tôi biết, phải
hướng đến tinh thần Đổi mới, với những vấn đề do hiện thực và chính công
cuộc Đổi mới đặt ra.
Tôi không thể không băn
khoăn khi nhiều người vẫn cố t́nh lăng quên hay tránh né sự thật lịch sử
và chân lí các giáo thuyết (tôn giáo, học thuyết) vốn có quan hệ trực tiếp
đến chính trị, kinh tế, văn hoá cùng nhiều lĩnh vực khác, đă trở thành sự
xung đột, đấu tranh ư thức hệ trong giai đoạn cận - hiện đại, 1858 - 1975
- 1989, với những vấn nạn c̣n tồn đọng chưa được soi sáng đến nơi đến chốn.
Một nhân vật trung tâm của cuốn tiểu thuyết này đă nói: "... bao nhiêu
người, nhất là những ai mười lăm, mười bảy tuổi, họ sống theo đà lao cuộc
sống, theo tốc độ cuộc sống, họ chẳng nghĩ ngợi ǵ. Họ đến với tương lai
đang tít tắp, mênh mông cùng vết thương ngầm. Họ xa lánh chuyện triết học,
chính trị, phong tục, lịch sử... Họ chế giễu những ai sính những vấn đề
này. Như thế, thật đáng âu lo. Họ sẽ vỡ mộng, ngă bệnh, vết thương ngầm sẽ
lại nhức nhối, mưng mủ, hành hạ họ, trên bước đường tương lai nào đó...".
Để tránh nguy cơ đó, tại sao chúng ta không quyết tâm đi đến tận cùng của
những vấn đề? Những ảo tưởng, nỗi bệnh, vết thương, chỉ có thể chữa khỏi
trong hiện tại, pḥng ngừa cho tương lai, bằng sự sáng suốt, điềm tĩnh,
với quyết tâm nh́n thẳng vào sự thật lịch sử, vào chân lí các giáo thuyết,
và chấp nhận đối thoại về sự thật, về chân lí. Không khí dân chủ, tự do
khá cởi mở trong công cuộc Đổi mới hiện nay đă khơi dậy những vấn nạn tồn
đọng đó. Lẽ ra phải quyết tâm đi đến tận cùng, mỗi người đều góp phần để
soi sáng những ǵ c̣n tồn đọng trong thời ḱ chiến tranh (1858 - 1975 -
1989), suốt một trăm ba mươi mốt năm gần đây.
Nhưng tôi cũng biết rằng,
không thuận lợi bao giờ cho quyết tâm đi đến tận cùng sự thật lịch sử và
chân lí các giáo thuyết! Ai cũng biết vậy, nhưng đại đa số không thể không
khao khát nh́n thẳng, đối thoại về sự thật và chân lí!
Chẳng lẽ Đổi mới là gơ
cửa khe khẽ để rồi sau đó là sự đóng đinh hoặc xây bít vĩnh viễn những
cánh cửa vốn chỉ khép lại trong thời ḱ chiến tranh? Tôi không tin vậy.
Trong một tấm ảnh chụp
về cuộc gặp mặt những người viết văn trẻ Tp. HCM. lần thứ nhất (15 -
16.11.2003), có mấy ḍng chữ lớn nguyên văn trên phông:
"Phấn đấu sáng tạo
nhiều tác phẩm văn học có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, thấm
nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người".
(trích nghị quyết Hội
nghị lần 5
BCH. TW. Đảng khoá
8).
Tôi biết vậy, và cũng
biết trước đó đă có nhiều nghị quyết Hội nghị Trung ương và Đại hội Đảng
khẳng định: phấn đấu xây dựng một nền văn học có nội dung chống chủ nghĩa
đế quốc, thấm nhuần tinh thần xă hội chủ nghĩa và đậm đà bản sắc dân tộc,
để góp phần h́nh thành con người mới từ con người cũ, nhất là từ thế hệ
được sinh ra dưới ánh sáng chế độ mới.
Đi tiếp chặng đường hiện
tại, chặng đường tương lai, không thể không ngoảnh nh́n chặng đường quá
khứ với những ǵ đă trở thành lịch sử. Thật ra, dù đúng dù sai, dù tốt dù
xấu, dẫu sao đi nữa, quá khứ là những ǵ đă xảy ra, không ai có quyền
xuyên tạc, cắt xén lịch sử. Những ǵ đă xảy ra? Các sự kiện đă xảy ra như
thế nào? Lúc nào? Nơi đâu? Trong bối cảnh nào? Lực lượng nào giương cao
chính nghĩa? Lực lượng nào phi nghĩa? Tại ai? Do đâu? Ai phải chịu trách
nhiệm? Ai xứng đáng được tuyên dương công trạng? Bài học lịch sử nào được
rút ra và đúc kết? Những câu hỏi cổ điển ấy phải được trả lời một cách
khoa học với đầy đủ tư liệu, một cách minh bạch và rốt ráo, không thiên
kiến, không cố chấp, hoặc trả lời bằng những tác phẩm nghệ thuật đích thực
với các tiêu chí: chân - thiện - mĩ. Đổi mới không phải là sự phủ nhận quá
khứ - lịch sử, nhưng chắc hẳn phải nhận thức lại quá khứ - lịch sử với cái
nh́n điềm tĩnh, sáng rơ hơn. Đây là một vấn đề của ngay chính sự Đổi mới!
Đâu phải tôi không Đổi
mới với khát vọng chân - thiện - mĩ! Đâu phải tôi không muốn được xuất bản!
Càng đỏ thêm nhưng càng đậm cá tính trong tư tưởng là điều tôi không biết
có nên diễn đạt như thế hay không. Nhưng quả thật, trong quá tŕnh đấu
tranh thầm lặng với các sức ép từ xă hội (các thế lực ngầm), đấu tranh với
sự cưỡng bức của hiện thực (không phải là mặc nhiên đối với vô thức), dần
dần tôi cảm thấy ḿnh nếm được hương vị tự do sáng tác. Rơ ràng từ bản
1997 đến bản 2003 này, tôi có mạnh dạn, táo bạo hơn, dám thể hiện tinh
thần dân chủ hơn.
Nhưng tôi cũng có phần
thiếu thận trọng, kém khôn khéo!
Đến bản 2003 này, tính
phê phán đă hướng đến nhiều nơi, nhiều phía và nhiều thế lực quá. Như vậy,
tôi lại càng tự cô lập ḿnh! Tôi biết ḿnh đă mạnh dạn, sáng suốt, khoa
học một cách bất lợi. Nói chính xác hơn, mạnh dạn, sáng suốt, khoa học như
thế là bất lợi! Phải chăng tôi đă thiếu thận trọng, kém khôn khéo, không
mềm dẻo theo tinh thần "dĩ bất biến ứng vạn biến" (*),trong giai đoạn
thoái trào cách mạng xă hội chủ nghĩa hiện nay trên toàn thế giới? Cuốn
tiểu thuyết này càng khó được các nhà xuất bản cấp giấy khai sinh để nó
được quyền sống, sống đàng hoàng, tử tế ở đời! Không những thế, tác giả
Mùa hè bên sông là tôi, sẽ có quá nhiều kẻ thù, quá nhiều thế lực thù
ghét trong và ngoài nước... Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa Việt Nam, hai hệ thống tổ chức lănh đạo,
quản lí toàn diện, thống nhất của nước ta, đă và đang xác lập quan hệ đối
ngoại đa phương: Việt Nam muốn làm bạn bè với tất cả mọi nước trên thế
giới. Có lẽ nào tôi không học tập, bước theo đường hướng Đổi mới đó?
Có điều, sự thật lịch sử
vẫn là sự thật lịch sử. Không thể viết khác đi được. Tôi không thể viết
khác với sự nhận thức, chiêm nghiệm của tôi được. Ai cũng đều hiểu như vậy.
Chẳng lẽ cuộc chiến tranh khốc liệt và hào hùng với quá nhiều thắng lợi
đồng thời cũng tổn thất nhất trong lịch sử bốn ngh́n năm, kéo dài đến một
trăm ba mươi mốt (131) năm (1858 - 1975 - 1989), không được chiêm nghiệm
lại, viết lại một cách chân thực nhất với cá tính sáng tạo của tác giả?
Tại sao không quyết tâm đi đến tận cùng sự thật lịch sử và chân lí các
giáo thuyết?
Cái tôi của con người
bao giờ cũng ứng xử thích hợp với không gian - thời gian - đối tượng nhất
định. Cái tôi sáng tạo nghệ thuật cũng thế. Đặt cái tôi TXA. hiện tại
(1997 - 2003) vào bối cảnh của các giai đoạn 1858 - 1885 - 1945 - 1954 -
1975 - 1989, sẽ có tâm thế khác. Cũng cái tôi TXA. 1997 - 2003 ấy, nhưng
đặt vào bối cảnh hiện tại (1997 - 2003) sẽ có tâm thế không giống tâm thế
kia. Hai tâm thế của một tác giả ở hai bối cảnh sáng tạo tuy khác nhau
nhưng vẫn rất thống nhất cá tính, bản ngă. Dạng loại h́nh tượng nhân vật
nói chung cũng tương tự thế. Những tên lính viễn chinh, xâm lược Pháp,
Nhật, Mỹ và tên "tả đạo" phản quốc thời ḱ chiến tranh 1858 - 1975 cũng
khác hẳn nhà giáo Pháp, thương gia Nhật, kĩ sư Mỹ thời Đổi mới và tín đồ
Thiên Chúa giáo "kính Chúa, yêu nước" hiện nay (1997 - 2003). Tôi biết có
nhà thơ đă làm thơ về cái bắt tay rất thân thiện với một người vốn là tên
lính Tàu bành trướng, kẻ đă bị anh nguyền rủa trong thơ hồi 1979, thời
điểm mặt trận biên giới phía bắc nổ ra. Nói giản dị là, tuỳ bối cảnh -
nhân vật của đề tài mà tâm thế sáng tạo nẩy sinh tương ứng.
Và mong rằng, xin người
đọc quư mến hăy đọc theo cách của ḿnh, và nếu không đồng ư, xin cứ phê
b́nh tác giả thật tối đa, hết mức, không nể nang, một cách thật sự văn
minh, lịch sự, như chúng ta thường tâm niệm về thái độ văn minh, lịch sự
cần thiết trong phê b́nh. Tôi nào dám thuyết phục ai một điều ǵ đâu, chứ
đừng nói là cưỡng bức người khác phải thuận theo. Đồng thời, tác giả chỉ
dám hướng tất thảy trần gian này và ḷng ḿnh đến nỗi niềm tự vấn.
Tŕnh bày như thế, là
cũng mong rằng, xin đừng quên lịch sử là chuyện quá khứ, những ǵ đă trôi
qua. Chiêm nghiệm lịch sử nhưng phải hướng đến hiện tại và tương lai với ư
thức góp phần sáng tạo nên lịch sử bằng chính mọi hành vi, hoạt động ở mọi
lĩnh vực, để lịch sử về hiện tại và tương lai không c̣n lắm kẻ bị giặc lừa
bịp, phản quốc, không c̣n sự thù hận, giết chóc, bức hại, để lịch sử về
hiện tại và tương lai sẽ người hơn, đẹp hơn, nhân hậu hơn, đáng tự hào hơn
(v́ hôm nay và ngày mai đều trở thành lịch sử). Cũng xin được nhấn mạnh
lại một ư tưởng: Tôi tin rằng, nói theo tục ngữ với h́nh ảnh ẩn dụ, sông
lịch sử vẫn có khúc, cũng như người sống trong tiến tŕnh lịch sử cũng có
lúc, không có ǵ không phát triển, chuyển biến một cách biện chứng. V́ thế,
tôi tin rằng không ai thù ghét tôi, tôi cũng không tự cô lập ḿnh.
Tôi xin mở rộng ḷng
ḿnh ra với cả Tổ quốc (Đàng Trong - Đàng Ngoài, Miền Nam - Miền Bắc) và
với cả thế giới, tất nhiên, bao gồm các tổ chức, các nước cựu thù của dân
tộc ta như Thiên Chúa giáo, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật, Mỹ, bá quyền Trung
Quốc, kể cả nước Nga sa hoàng (**)... Cựu thù nhưng đă trở thành bè bạn.
Vả lại, thật sự tôi viết
cuốn tiểu thuyết này với tất cả tấm ḷng thành, tất cả thiện chí. Chẳng lẽ
ḷng thành, thiện chí của tác giả lại bị người đọc thù ghét, cô lập? Chẳng
lẽ với ḷng thành, thiện chí, nhất là với tính chân thực lịch sử và sự
lành mạnh văn học, cuốn tiểu thuyết này không được quyền khai sinh, không
được quyền sống (quyền xuất bản, quyền phát hành)?
Cuối cùng, vẫn mong có
một nhà xuất bản nào đó cho phép Mùa hè bên sông (hay Nỗi đau hậu
chiến) được sống, và sống một cách đàng hoàng. Tác giả cũng xin được tất
cả mọi người rộng ḷng thứ lỗi để được nhắc lại:
Xin người đọc quư mến
hăy đọc theo cách của ḿnh. Nếu không đồng ư, xin cứ phê b́nh tác giả thật
tối đa, hết mức, không nể nang, một cách văn minh, lịch sự như chúng ta
vẫn quan niệm.
Là một người cầm bút
trung thực, thật sự cầu thị, luôn luôn khao khát được độc lập, tự do, dân
chủ trong sáng tác, nhưng tôi cũng rất quư trọng sự phê b́nh văn nghệ, học
thuật với tinh thần khoa học đích thực. Lẽ nào tôi không hiểu với độc lập,
tự do, dân chủ trong lĩnh vực sáng tác phải thường xuyên đối thoại thẳng
thắn, cởi mở với mọi cây bút độc lập, tự do, dân chủ trong địa hạt phê
b́nh; nếu không sẽ dẫn đến vũng bùn, hố thẳm sai lầm, đồi bại, để rồi cuối
cùng sẽ triệt tiêu độc lập, tự do, dân chủ rộng mở và chính đáng!
Cuốn tiểu thuyết mở ra
vài lời thưa, trước khi vào truyện như thế.
Tôi xin mở rộng ḷng
ḿnh ra với cả Tổ quốc và với cả thế giới.
Trân trọng, biết ơn.
Tp. HCM., 11 giờ 06
phút, 19.12.2003
(26.11 Quư mùi HB.3)
25.12.2003 (03.12 Quư
mùi HB3).
TRẦN XUÂN AN
địa chỉ liên lạc:
71B Phạm Văn Hai
P.3, Q. Tân B́nh
TP. Hồ Chí Minh
ĐT: 08 – 8453955
& 0908 803 908
CƯỚC CHÚ bài LỜI THƯA
TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN:
(*) Lấy cái không thể
thay đổi để ứng phó với vạn sự chuyển biến, đổi thay.
(**) Nước Nga sa hoàng
(trước Cách mạng Tháng mười Nga 1917, thuộc cánh thực dân xâm lược) đứng
ra điều đ́nh để chấm dứt cuộc chiến tranh Pháp - Hoa (1883 - 1885), và hai
nước ấy tiến tới kí hiệp ước Thiên Tân (11.05.1884, 04.04.1885.
09.06.1885), khiến thế trận "toạ sơn quan song hổ đấu" của triều đ́nh Huế
(do Nguyễn Văn Tường - Tôn Thất Thuyết chủ trương tác động) bị phá vỡ. (Trong
sự kiện này, c̣n có vai tṛ một người Đức tên Đê-tring [Détring]). Xem:
Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, chính biên, tập 36, bản dịch
Tổ Phiên dịch Viện Sử học, Nxb. KHXH., 1976, tr. 174.
Cảm
nhận bên ḍng sông
lang thang dọc cửa sông
khuya
tâm hồn Đất nước hiện về
như mơ
suốt ngày ngây dại sững
sờ
ḍng sông bỗng hóa ḍng
thơ chiều này
TXA.
1
sông nơi cửa sóng
muôn phương
lắng niềm chớp bể mưa
nguồn thẳm sâu
nắng phơi mái rạ buồm
nâu
dáng ai tóc trắng
ngẩng cao sáng ngời
bập bùng bếp lửa bừng
soi
bên đàn cháu nhỏ nụ
cười an nhiên
như trăm truyện cổ
thần tiên
ngh́n câu dân dă sáng
lên nụ cười
dáng ai in giữa biển
trời
ngh́n-năm đọng ở
nụ-cười-trẻ-thơ
trời hồn nhiên đến
không ngờ
ở nơi nguồn thẳm chạm
bờ biển sâu
ở nơi sóng gió lao
đao
trời xanh như lọc từ
bao nỗi niềm
2
lẽ đời, sinh tử, buồn
tênh
gậy thần chỉ sáng cái
nh́n mù đau
(không có ǵ tan mất
đâu
thấy trong gỗ mục
nguyên màu chồi tươi
bàn tay in dấu vào
đời
cho ngh́n xưa sống
với người ngh́n sau)
với niềm khát vọng
thẳm sâu
người mang sách ước
đọc vào tự nhiên
con người bỗng hóa
thần tiên
bởi rất người rất tự
tin chính ḿnh
như từ trong thuở u
minh
cánh tay người muốn
nâng lên ṿm trời
là hoa, phải sáng nụ
cười
người ta - hoa của
đất trời - sáng lên!
3
trước giặc thù vẫn
điềm nhiên
uy rồng ở nụ cười
tiên Diên Hồng
từ dân, Gióng đẹp lạ
lùng
ḷng dân - trời rộng
- anh hùng bay lên
hoà b́nh xanh ngát
mông mênh -
tiếng đàn cho giặc
trái tim con người
nồi cơm độ lượng
không vơi
Thạch Sanh - rạng rỡ
chất người-rồng-tiên!
4
bài ca sức sống Kẻ
Diên
hát trong tuyệt vọng,
sáng thêm cách nh́n
oán thù, vẫn sẵn ngọt
lành
bát nước đổ xuống,
bưng lên, lại đầy
nhân t́nh, cười ấm
ḷng say
rất nhân hậu, nhẹ
nhàng thay nụ cười
buồn, vui cũng miếng
trầu tươi
bâng khuâng thắm
thiết hồng đôi môi người
5
trước tṛ hợm của
trêu đời
tự ḿnh biết giá nụ
cười, Bờm ơi!
6
Ba Phi cười rộng đất
trời
trăm câu chuyện Trạng
cho người người hơn
cho loài chuột ngự
ghế son
ngậm danh thiếp chạy
đuôi cong trăm vùng
ḷng thương trải đến
muôn trùng
bia căm ghét cũng
chập chùng dân gian
khổ, nên cười lộng
cười vang
cười ngăn nước mắt
hai hàng rưng rưng
7
cơ chi nắng sáng mọi
hồn
có đâu Thị Kính ôm
con trước chùa
đạo đuổi xua, đời
đuổi xua
biết đâu đất sống,
mưa lùa oan khiên!
Xúy Vân ơi, đời sáng
lên
đời vui, đâu phải giả
điên giữa đời
khát khao hạnh phúc
con người
ngán ḷng khô khốc,
nhầm lời dối gian
có cần chi nắm cơm
vàng
nỗi niềm bi đát chưa
tan giữa ḍng
c̣n ǵ để chọn bên
sông
mang mang nước chảy
ṛng ṛng lệ trôi
thân bằng cuộn lá
chợ-người
buộc hờ mà siết ṿng
đời xót xa
“đau đớn thay phận
đàn bà”
bao ngâm khúc cũng
nấc ̣a đàn môi
môi cười ấm giọt lệ
rơi?
sum vầy? oan rửa?
điên đời vẫn điên?!
ước ao mùa tốt, xanh
chiêm
giọt mồ hôi đổ mới
nên hạt vàng
uất ức, giẫm nát tan
hoang
trong tha hóa, nghèo
gây oan cho nghèo
gặt rồi c̣n được bao
nhiêu
ao khuya bắt ốc ṃ
nghêu qua thời
đêm c̣n cúi mặt dưới
trời
ruộng giăng xiềng
xích làm người được đâu
“đ̣n tre chín rạn vai
đau”
con đường lẩn quẩn
nối nhau gánh gồng
“cái c̣ cái vạc cái
nông…”
sợ ḍng nước đục đau
ḷng c̣ con!
đành mong nghiệp báo
xoay tṛn
cơ chi thoát kiếp
ngay trong một đời
thị vàng, quả thị
vàng ơi
bao nhiêu cô Tấm mỉm
cười vời trông...
8
xuân tàn, thân bệnh...
Vô thường!
cành mai sức sống
sáng bừng sân đêm
mọc từ khổ sợ lo
phiền
đóa sen thanh tịnh nở
trên lửa hừng
chiều thôn dă khói
trầm hương
theo kinh siêu thoát
như sương thấm ḷng
bụt là bụt của ước
mong
nụ cười tỏa ấm bếp
hồng chiều hôm
9
nén ḿnh, nghe tiếng
non sông
đời bao bước ngoặt,
tấc ḷng sáng soi
gươm nhân nghĩa, giặc
tan rồi
tự do, thông vút, đầu
rơi, đỏ cành!
vẫn lồng lộng ánh
trăng thanh
nụ cười ưu ái, ngời
xanh dáng tùng
10
ḷng thênh thang,
bước ung dung
vào đời, ẩn giữa
triều cung với đời
chốn lao xao, mây nhẹ
trôi
vẫn làn mây trắng bên
trời quê xa
ra về, thơ vẫn ngâm
nga
ngỡ là mây, hay mây
là ḿnh đây
hoà vào trời đất cỏ
cây
ta trong ḿnh, thiên
nhiên này trong ta
tắm trong sắc nắng
hương hoa
mùa nuôi sống với
tinh hoa của mùa
càng thương đồng
ruộng xác xơ
ghét loài cắn phá nên
thơ vẫn nồng
cửa đời có một khoảng
không
có khoảng không mới
có khung cửa đời
chí vô vi như nắng
trời
mong dân tự sáng cuộc
đời, đời vui
lập am, ẩn một nụ
cười
không quên chuẩn bị
cho đời tương lai
niềm thơ dân dă không
phai
tứ thơ mây trắng bay
hoài đầu non
11
dẫu đau tiếng khóc
oan hồn
dẫu đời quặn thắt
đoạn trường tiếng kêu
nụ cười đọng cuối
ḍng Kiều
trong như ngấn nắng
tuôn theo lệ người
“cuộc đời đến thế th́
thôi”
cố t́m chút nắng cho
đời trấn an
thương sao
ánh
mắt lạc quan
nḥa trong
sương-khói-chữ-tâm
nghẹn ḷng
thương sao trang giấy
chập chùng
thương ḍng mực chảy
lạnh nguồn xưa sau
kiếp người thê thiết
đớn đau
những điều trông thấy
đọng sâu nỗi niềm
thương ai se nắng
trong đêm
gắng hừng nét mực,
bấc đèn chơi vơi...
mắt nh́n thấu suốt
ngh́n đời
rưng rưng lấp lóa
nắng ngời trên nghiên...
cách chi cho nắng
hồng thêm
mạch đời nào phải
đứng yên cho đời...
thương ai trắng tóc
ba mươi
khóc Kiều cười được
với môi úa tàn...
người đến sau ba trăm
năm
biết ai nhớ lại khóc
thầm ai không?
đoạn trường sổ lệ ứa
ṛng
vua quan khơi măi bao
ḍng đau thương
làm sao xóa lấp Tiền
Đường
chảy mê tiềm thức tự
nguồn trời xa
sao người thêm cơi
người ta
nâng cành hoa găy,
giữ hoa bao vùng
khi Kiều mang phận
đời chung
trỏ gươm phán xét,
nắng hồng thật hơn!...
ngước lên Hồng Lĩnh
chon von
cồn hoang, phiến đá
trắng ṃn, mồ chôn!
12
phương nam! rời ră,
mỏi ṃn
đă mất Mẹ, Nước có
c̣n Nước ơi
có đôi mắt cũng mù
rồi...
vượt qua số phận,
chân người cứng thêm!
ước mơ - ngọn lửa
bùng lên
nung rèn gươm bút Vân
Tiên giữa đời
từng đơn thuốc ấm
t́nh người
với quê hương lại
rạng ngời trái tim
đuốc nghĩa quân sáng
niềm tin
từ trong dân dă, cái
nh́n sáng hơn?
13
Dụ Cần vương dậy
Trường Sơn
Giải Triều, trung
nghĩa, tờ son gửi về
b́nh Tây, sát
tả-tà-mê
cho Tân Sở - Huế tư
bề hoa giăng
lễ tần viết sắc “ḥa”
ban
Tôn Thuyết chiến để
Nguyễn Văn Tường đàm
Pháp tung cáo trạng
bắc nam
lưu đày Ḱ Vĩ, chết
thầm đảo xa
súng rền, khâm sứ bôi
nḥa
ḥm tù đỏ, Hạnh Thục
ca hoen vàng
Vè Thất thủ giữa dân
gian
giọng run lệch bởi
chuông vang giáo đường
thơ Nguyễn Thượng
Hiền buốt sương
thương thái phó, ngó
sen vương, dặm về (*)
14
bơ vơ, sống với làng
quê
nụ cười Yên Đổ thoáng
nghe thu buồn :
“cờ dở cuộc, bạc chạy
lường”
quốc kêu khuya vắng
máu tuôn thấm ḷng...
rất riêng, vẫn một
nguồn sông
chút t́nh non nước
vọng hồn nước non
trách ḿnh chi, buổi
hoàng hôn
chao ơi, phỗng đá vẫn
c̣n đó đây
lửa bùng, tắt nghẹn,
đêm dài
mưa đời vây bủa như
dây trói ḷng
niềm đau buốt xót tận
hồn
Tú Xương bật tiếng
cười gịn, ngẩn ngơ
lạc đường ngóng đến
bao giờ
giật ḿnh, lạnh tiếng
gọi đ̣, đêm khuya
15
mắc mưu Hữu Độ tỏa mê
Khang, Lương (đại Hán
!), xóa thề Cần vương
Duy tân theo Nhật,
nghẹn đường
súng gươm Quang phục,
tự cường, khôn nguôi
Mai Lăo Bạng sống bên
Người
sách kia ai sửa?
Sai lời sắt son! (**)
gót chân ngang dọc
chưa ṃn
mắt sương Bến Ngự vẫn
c̣n ngóng trông
xa xa một ngọn cờ
hồng
nụ cười hi vọng ấm
ḍng sông Hương
16
nát tan phân ră loạn
cuồng
sương mù mịt vẫn mịt
mùng bủa giăng
nụ cười nở sáng ḷng
dân
c̣n ai chưa tỉnh mà
nâng ḷng ḿnh
thả đời trôi nổi lênh
đênh
mờ mờ nhân ảnh in
quanh lệ buồn
giọt nước mắt, trời
tang thương
khác chi trái đất
quay cuồng trong đêm
thuế máu sôi trào đất
đen
sóng hồng vỗ gọi bao
triền đá mê
bài ca cách mạng c̣n
kia
ánh sao từ ấy, sương
khuya, soi đường
vẫn chia ḍng nước
sông Thương
ngậm ngùi giấc mộng
b́nh thường rưng rưng
trăm cơn gió lốc mịt
mùng
ngh́n luồng gió xoáy
không ngừng trong tim
c̣n ai ngơ ngác kiếm
t́m
trong quằn quại mắt
ngợp nh́n hư không
trăng! trăng! trăng!
trăng năo nùng
hồn ai ớn lạnh sặc
từng ngụm trăng
nhớ sao trưa nắng
chang chang
bóng cô gánh thóc rực
vàng đường thôn
“Cha! sao Cha đành bỏ
con”
những mong sống lại
tâm hồn Gái Quê
xác thân mục rữa sần
tê
nhớ ơi Thôn Vĩ sao về
mà thăm
nến lung linh huệ
trắng ngần
trong ảo giác trăng
chợt gần chợt xa
ôi vầng trăng Ma-ri-a
sáng như viên thuốc
sáng ḷa hư vô
đức tin nghiệp chướng
ngây ngô
niềm mất nước hoá
giấc mơ kinh hoàng
thơ ai trên gạch tháp
Chàm
mười bảy tuổi, vội
điêu tàn tóc xanh
bóng ma gào khóc
chiến tranh
đau trong đau, đă kết
thành, triệu năm
17
ôi Ma-ri-a Tố Chân
nắng ḥa b́nh ấm khăn
quàng yêu thương
Nhất Chi Mai - đuốc
soi đường
cành hoa sức sống
sáng bừng tự do
máu tuôn ngực áo học
tṛ
mặt đường khát vọng
rực bờ sông xanh
khúc da vàng, lửa
mong manh
khói trời ngơ ngác
toả nhành nhạc kinh
hoa vô thường, sương
lung linh
theo hương t́m cơi
yên b́nh cho nhau
mây thênh thang giữa
trời cao
lạc vào mộng tưởng,
ch́m sâu sông buồn
bao nước mắt, bao
mảnh gương
ai đem ghép lại soi
khuôn mặt ḿnh
mong sao gương vỡ lại
lành
nụ cười thêm sáng
dưới vành trăng thiêng
18
quăng đời cay đắng
lênh đênh
lắng sâu mặt nước
ngày đêm đưa đ̣
mái chèo Mẹ Suốt nối
bờ
đưa quân đi tự ngh́n
xưa đưa vào
mẹ cười sáng mỗi ngôi
sao
sáng trên vầng trán
sáng vào nước non
sao bay đỉnh gió Sài
G̣n
có về soi lại tấm
ḷng mẹ không
19
sông nơi cửa sóng
muôn phương
lắng niềm chớp bể mưa
nguồn, chứa chan
giữa nơi lốc băo ngàn
năm
lại làm lốc lặng băo
tan cho người
và người thơ - ngọn
thu lôi
nhận bao sấm sét giữa
trời thương đau
dẫn truyền xuống tận
đất sâu
mạch đời hóa giải
biết bao nỗi đời
lọc từ ngh́n nỗi muôn
nơi
lắng sâu tỏa rộng ṿm
trời b́nh yên
đọng thành nguồn sáng
trong tim
trái tim đằm thắm
hồng lên nụ cười
dẫu đi cuối đất cùng
trời
trong ḷng đă có nụ
cười an nhiên
ngh́n xưa c̣n đó hồn
thiêng
phơ phơ tóc trắng bao
miền dân gian
nụ cười tự bốn ngh́n
năm
rạng ngời bản lĩnh
lương tâm giữa đời
sẽ qua đi mọi rối bời
để thêm thanh thản nụ
cười thẳm sâu!
1985
@ Bên ḍng sông Bến
Hải và tại đ́nh làng Kẻ Diên
@ Kỉ niệm lần thứ 100
Ngày Kinh đô Huế quật khởi,
và lần thứ 10 Ngày Giải
phóng Miền Nam, thống nhất Đất nước.
TRẦN XUÂN AN
(*) (**) 14 câu khúc 13
và 6 câu khúc 15 mới bổ sung thêm, trong quư thứ tư, năm 2001.
Mùa hè bên sông
“Một nửa cái bánh ḿ
vẫn là bánh ḿ,
nhưng một nửa sự thật chỉ là giả dối”.
(danh ngôn khuyết
danh)
Có nhận thức đúng và
đủ về hai miền Đất nước,
để cảm thông thật sự,
cảm thông tận cùng,
mới có đại đoàn kết
vững bền, không ǵ chia cắt được nữa.
TXA.
Chẳng lẽ bạn nhân danh một hoặc những giáo thuyết:
Phật, Lăo, Khổng, Giê-su, Ma-hô-mét..., Mông-tét-x-ki-ơ, Rút-sô, Von-te,
Tôn Văn..., có thể cả Mác - Lê-nin nữa (dẫu sao cũng chỉ là giáo thuyết
ngoại lai, hàng ngoại nhập) để bức hại, giết chết lẫn nhau; bức hại, giết
chết những người chỉ tôn vinh dân tộc tính (bản sắc văn hoá - lịch sử dân
tộc Việt Nam) và chủ nghĩa Hồ Chí Minh (không có ǵ quư hơn độc lập, tự
do; độc lập, tự do cho cả dân tộc, cho mỗi người; hướng đến một nền dân
chủ thực sự) với hồn rộng mở?
(Lời ḍng sông Bến Hải)
CHƯƠNG I
1
Chiếc xe khách chậm lại
rồi dừng hẳn ven đường. Anh thanh niên ở phía sau chạy tới mở cửa hông cho
người đàn ông và cô gái bước xuống. Chiếc xe cũ kĩ đầy ứ khách lại mệt
nhọc lăn bánh ra Hồ Xá.
Khoảng mười giờ sáng,
nắng mùa hè chói chang.
Người đàn ông, khoảng
năm mươi lăm tuổi, mặc chiếc quần ḅ bạc thếch và áo thun xanh. Cô con gái
cũng quần ḅ, áo thun màu xám nhạt, có dáng dấp sinh viên. Người đàn ông
xách va li, đứng nh́n con đường làng cắt ngang cánh đồng mạ non mới cấy,
ánh mắt thoáng đăm đăm, bồi hồi nh́n xóm nhà sau lũy tre xanh.
Hai người bước xuống con
đường đất. Người đàn ông nói khẽ:
- Đằng xa kia là làng
nội đó! - Giọng thầm như độc thoại.
Đi một quăng, người đàn
ông chợt nhớ, đứng lại, chỉ tay theo hướng quốc lộ, phía xe khách hồi năy
đă chạy ra.
- Ḱa, cầu Hiền Lương.
Tên con là mượn của cái cầu ấy đó.
Cô gái bỏ chiếc va li
đang xách xuống đất, mỉm cười, bâng khuâng nh́n theo hướng cha chỉ. Một
chiếc cầu sắt hết sức b́nh thường bắc ngang một con sông có lẽ cũng không
rộng lắm, cô không ngỡ ngàng khi trông thấy. Cô là Hiền Lương, chiếc cầu
ấy đă gắn vào đời cô từ tấm bé, mặc dù đây là lần đầu tiên, không phải
h́nh ảnh, mà chiếc cầu thật cô được nh́n tận mắt.
- Rồi con sẽ có dịp bước
đến chiếc cầu ấy, sờ và ngắm cho bơ công. Bây giờ phải về làng cái đă. -
Người đàn ông nói.
Hiền Lương vừa bước theo
cha, vừa ngoái nh́n, nghe rưng rưng cảm động.
- Ba tên Nông. Nông là
làm ruộng. Nông cũng là cạn! - Chú Nông vừa nói vừa cười.
Đi một quăng, chú lại
nói:
- Cha con ḿnh là dân
gốc rơm, gốc rạ chính cống, mặc dù ở B́nh Dương nhưng vẫn đích thực là dân
gốc ruộng Bến Hải.
Hiền Lương khẽ cười thật
tươi thành tiếng. Áo cô ướt mồ hôi dưới nắng trưa, nhưng gió đồng lồng
lộng thổi, mát rượi. Gió lùa vào từng chân tóc. Cô dừng bước, buộc lại tóc,
ngoái nh́n cầu Hiền Lương. Nỗi mệt mỏi sau một chuyến đi tàu đường xa,
suốt mấy giờ ngồi ở sân ga chờ sáng, nỗi ê ẩm chật chội suốt mấy chục cây
số ngồi xe khách xộc xệch chạy, bỗng theo ngọn gió đồng bay đi đâu mất. Cô
vác một bó thanh gỗ có ốc vặn và xách va li theo cha. Chẳng có ǵ, một giá
vẽ, mấy bộ quần áo, chút ít quà B́nh Dương, nhẹ tênh.
Gần tới làng, chú Nông
vừa bước vừa cúi đầu nh́n đất.
2
Khoảng năm giờ sáng, chú
Nông đă trở ḿnh, mở mắt nh́n vào bóng đêm đang tràn ngập trong nhà. Ngoài
khung cửa sổ, nền trời với những v́ sao le lói xanh biếc, in đậm bóng cau
và chuối. Tiếng trâu nhai lại cỏ, thỉnh thoảng chen tiếng đuôi quất muỗi.
Mùi phân trâu tan loăng trong gió lành lạnh. Chú Nông bắt gặp lại cả một
thuở thiếu thời với cảm giác bồi hồi, nghèn nghẹn.
Đang lơ mơ trôi trong
hoài niệm, chú nhác thấy ánh lửa đă bập bùng ở gian nhà ngang. Mùi lửa rơm
thơm nồng cay cay. Có lẽ thím Cận đă dậy đun nước.
Ngoài ngơ, bác Su đă ồm
ồm lên tiếng. Bác qua uống trà, chuyện văn với hai người em, nhưng chưa ai
dậy.
Lát sau, khi nước trà đă
chuyên ra ba cái chén nhỏ, dưới ánh đèn ống ba tấc, ba anh em ruột cười
cười nh́n mặt nhau.
Bác Su nói:
- Năm nay, giỗ cha, có
chú Nông và cháu Hiền Lương về, hay thật. Hèn chi hồi đêm trời trở sương.
- Dạ, cũng cố gắng đưa
cháu về cho biết quê nội.
Chú Cận, vốn là tên Cạn
- v́ làm nông, có ruộng su (sâu), ruộng cạn - sau đi lính ngụy, đổi lại
thành Cận cho có vẻ chữ nghĩa một chút. Chú uống trà, chép miệng khen ngon.
Chú Cận rít thuốc, vừa nói, vừa thở khói ra:
- Năm nay giỗ cha ở nhà
em, tất cả mọi cái đă lo liệu gần xong. Chỉ c̣n chuyện đi chợ mua đồ vặt,
che rạp, mượn bàn ghế. Hôm nay, ư anh Nông muốn đi thăm nhà thờ tộc và
lăng mộ trước. - Chú Cận nh́n bác Su.
- Dạ, cái đó là quan
trọng. - Chú Nông cũng hướng vào bác Su để nói.
Hiền Lương cũng đă dậy,
áo quần đàng hoàng tươm tất, không phải quần ḅ áo thun đi đường như mấy
hôm trên tàu xe. Sau một hôm ngủ ngon bù giấc, cô nom khỏe khoắn. Hiền
Lương thật xinh đẹp, từ gương mặt đến dáng h́nh.
Con gái chú Cận, khoảng
mười lăm tuổi, vào ṿng tay mời người lớn xuống nhà ngang ăn cơm sáng. Bữa
ăn sáng ở đây cũng là bữa chính.
Cơm nước xong, chú và
bác, Hiền Lương và cha ra ngơ, đi qua nhà thờ họ Hoàng.
Đối với Hiền Lương,
khung cảnh nông thôn cô quen nh́n thấy chỉ là “miệt vườn”. Cô cũng đôi lần
về thăm quê bạn, nhưng ở Miền tây Nam bộ, cũng đồng bằng “miệt vườn” như
thế. Ở đây, vẫn làng quê, nhưng quê kiểng Miền Trung, nhất là bên sông Bến
Hải này, sao có nét ǵ khang khác. Cô biết huyết thống trong ḿnh cũng từ
mạch đất này mà ra. Với ư tưởng đó, cô thấy ḿnh lặng đi trong cảm giác
nao nao, vừa thiêng liêng vừa máu thịt. Con đường quê đất cát pha c̣n ướt
sương, hai vệ cỏ bên đường lóng lánh. Những khóm tre, khóm hóp, những cây
dứa dại, những hàng rào râm bụt, chè tàu, các mái tranh, mái ngói, tất cả
đều tinh khiết trong sương và gió nhẹ ban mai. Ồ, những đụn rơm vàng tươi
mùa gặt mới...
Chú Nông đi bên những
người ruột thịt, cảm thấy ấm áp, tin cậy. Cái đầu cúi lặng buồn lúc mới
gần đến làng, hôm qua, giờ không c̣n nữa cảm giác nặng nề ngài ngại.
3
Ở vùng quê từng là vành
đai trắng này, suốt mười mấy năm sau Ngày Thống nhất, đ́nh chùa miếu vũ
vốn đă bị bom đạn tàn phá đến mức không c̣n một thanh gỗ, một phiến gạch,
đâu đă được chú tâm xây dựng lại. Mới mấy năm gần đây thôi, những ǵ đă
gắn bó một ḍng tộc, một cộng đồng hương ấp về mặt văn hóa tâm linh mới
được phục hồi.
Trên nền gạch cũ, trong
khuôn viên cũ của nhà thờ họ Hoàng, là một ngôi nhà gạch lợp ngói nho nhỏ.
Trên bốn thân cột hàng hiên là hai cặp câu đối chữ quốc ngữ viết theo dạng
chữ nôm xưa, ai cũng có thể đọc được, nhưng vẫn rất cổ kính ngàn năm.
Ông từ ở nhà ngang lợp
tranh, vui vẻ đi ra kéo cái cửa ngơ bằng nè (chà) tre. Người trong họ gặp
nhau là nhớ tên liền.
Chú Nông dẫn con gái vào
gian thờ, trong khi ông từ đốt đèn, thắp nhang. Rút lặng lẽ trong túi xách
ra một phong bao đựng tiền, chú Nông bảo Hiền Lương bỏ vào thùng đă được
niêm phong và khóa kĩ, chỉ có một khe nhỏ được đục sẵn. Chú kính cẩn thắp
một nén nhang nhận từ tay ông từ. Ông từ cũng trao cho Hiền Lương một nén
nhang khác.
Hai cha con trang nghiêm,
thành khẩn khấn niệm. Một cảm xúc thiêng liêng dâng lên trong ṿm ngực,
khiến chú Nông nghèn nghẹn. Nước mắt chừng như sắp ứa ra. Chú Nông cố gh́m
lại. Mắt chú đăm đăm nh́n vào bài vị tổ tiên bao đời, nh́n vào khung kính
có vẽ tranh con trâu, bờ tre, cánh đồng, ṿm trời, đàn chim, tượng trưng
cho Đất và Trời, Núi sông Làng nước, nhưng rồi chú không thấy ǵ cả, chỉ
nghe một cảm xúc tủi thẹn dâng trào, cay cay sống mũi. Mắt chú mờ đi.
Hiền Lương vừa xúc động
trong không khí trang nghiêm thành khẩn, vừa cố trấn tĩnh dơi nh́n cha.
Chú Nông làm ǵ, nhất cử nhất động, Hiền Lương đều làm theo.
Lát sau, khi đă cắm
nhang ở các lư nhang xong, chú Nông quay ra. Đến gần ông từ, râu bạc, đang
niềm nở cười, chú thưa:
- Cháu chắt làm ăn xa,
chẳng biết đóng góp chi cho đủ, chỉ xin tổ tiên họ tộc lượng thứ cho.
Nói xong, chú Nông lặng
lẽ quay mặt. Chẳng biết nói chi hơn, chú xin phép cáo từ. Chú cảm thấy
ḿnh có lỗi với làng tộc quá.
Ông từ già nua ngơ ngác
trước cử chỉ khá đột ngột của chú Nông. Nhưng ông hiểu chú Nông buồn, mặc
dù chẳng rơ nỗi tủi buồn ấy ra sao. Chú Nông thấy ḿnh hơi thất lễ với ông
từ, nhưng đành im lặng.
Ra đến ngơ, chú Nông cúi
chào thêm một lần nữa, và lặng lẽ bước. Từ nhà thờ tộc, về theo đường lớn
của làng, rẽ qua ngơ nhỏ ra băi nghĩa trang, chú trầm ngâm không nói ǵ.
4
Đây là băi tha ma, cũng
có thể gọi là nghĩa trang của làng. Những gốc dương cằn, nhiều thân bạch
đàn non, lắm bụi duối dại bao quanh. Thời chiến tranh, ai nấy đều bỏ làng
mà đi, không kịp mang theo ảnh thờ, bài vị, b́nh nhang, nói chi chuyện mồ
mả. Những người già, thấm thía câu dặn ḍ của ngàn xưa, “sống là nhà, thác
là mồ”, buồn lắm. Rồi bom thả dày đặc những hố là hố. Đất làng lành lặn,
xanh tươi ngh́n năm, bỗng như cái rỗ thưa!
Nhà cửa, ruộng vườn tan
hoang, lau và tranh bời bời, ngút ngàn. Mồ mả mưa nắng xói ṃn, có nhiều
nấm mộ bị bom đào, xương khô ḥm mục bay tứ tán.
Chú Nông cùng hai người
anh em ruột thịt của ḿnh, cùng Hiền Lương đứng trước mấy nấm mộ đă được
xớt cỏ dăm hôm trước. Có những nấm đắp lại, chắc chắn ít nhiều sai vị trí
cũ, sau khi dân làng được hồi hương. Và cái lăng được xây trên vị trí áng
chừng ấy. Đôi ông thầy địa lí ở các làng bên được mời xác định lại mồ mả.
Biết thầy cũng suy đoán ṃ, nhưng thế cũng yên tâm, mặc dù chỉ là tự dối
mà yên tâm.
Chú Nông cứ nghĩ nấm mộ,
thẻ bia, lăng xây quét vôi xanh đỏ, giờ đây có thể chỉ là tượng trưng.
Nhưng, chú lại nghĩ, sống trên đất làng, nhờ vào đất làng mà có cái ăn cái
mặc, chết cũng tan ḥa vào đất đai làng này, dù xương khô tan tác bụi kia
bờ nọ, th́ người thiên cổ cũng đă thấy ấm áp t́nh làng.
Gió nam mùa hè bắt đầu
thổi mạnh hơn. Khói nhang giạt theo gió. Bốn người chắp tay đứng trầm ngâm
tưởng niệm.
Hiền Lương nghe bâng
khuâng một niềm man mác. Sống trong một gia đ́nh, mẹ là Thiên Chúa giáo
toàn ṭng, bỏ đất Bắc vào Sài G̣n cũng v́ Chúa, nhưng cha vốn gốc lương,
theo đạo lí người Việt thuần túy, chỉ thờ kính Nguồn cội, Tổ tiên, Đất
nước, không phải theo Chúa kiểu “đạo ḍng”, và đă từ rất lâu nhạt đạo, chỉ
đi nhà thờ cho mẹ vui ḷng, bên ngoại khỏi trách, Hiền Lương cảm thấy ḿnh
rất dễ ḥa đồng với bất ḱ kiểu tín ngưỡng nào. Bạn bè thuộc lứa tuổi của
Hiền Lương cũng đủ thứ đạo. Tranh căi với nhau lúc này lúc khác, rốt cuộc,
nhóm bạn cũng có chung với nhau một mẫu số về tâm linh, dù tương đối thế
thôi.
Hiền Lương bâng khuâng
nh́n khói nhang bay trong gió. Tâm hồn cô cứ xao xuyến hoài một ư tưởng:
huyết thống của cô từ mạch đất này. Đất làng này, nơi nuôi dưỡng bao đời
ḍng họ cô và như thế đă biến đổi cả máu thịt của ḍng họ. Cây rau muống
đất Bắc (1) vào châu Ô này bao đời, chất rau ấy đă khác. Chất mới ấy là
chất Bến Hải, chất Quảng Trị. Đến đời cha cô, chất Bắc đă thành chất Quảng
Trị đặc sệt, thuần chất. Trong cô có chất Bắc ḱ của mẹ, chất B́nh Dương
của đất ở và của bạn bè, nhưng đậm đà nhất vẫn là chất Bến Hải này đây.
Không chỉ là ước lệ xă hội, mà với ư nghĩa rất thực nghiệm, Đất đă làm nên
huyết thống. Cô chẳng biết ḿnh có ảo tưởng về ḿnh không.
Tất cả những ư tưởng vừa
mới thức ngộ ấy, ở Hiền Lương, không rạch ṛi, rơ ràng, và tuy cứ xao
xuyến trong cô, vẫn rất mơ hồ, rất cảm tính. Nhưng, quê nội, hai
tiếng ấy ruột rà, thiêng liêng biết chừng nào.
Hiền Lương nh́n thấy
gương mặt chú Nông trầm ngâm.
Chú Nông quay nh́n chú
Cận bên bác Su đang ph́ phèo hút thuốc lá dưới gốc dương liễu đằng kia.
Bước tới gần, chú nói với em và anh trai:
- Nắng lên khá rồi, chú
với bác cứ về trước với cháu, lo việc nhà như thường ngày. Lâu quá mới ra
thăm ba mạ, ông mệ, muốn ở đây một chốc. - Chú nh́n anh trai - . Em ở đây
một chốc, lát nữa em về sau. - Lại nói với Hiền Lương - . Con về trước
nghe.
Hiền Lương tần ngần, rồi
cũng theo chân chú và bác.
C̣n lại một ḿnh, chú
Nông ngồi dưới gốc dương liễu to, cằn, có lẽ do bom hay pháo phạt ngang,
chĩa cành xanh um. Trái khô mùa trước nở hết gai rụng đầy với lá, ngả màu
nâu sẫm. Chú bồi hồi mỉm cười. Thời tấm bé, chú với bạn bè cùng tuổi hay
ra đây, leo hoặc vói hái duối dại, vàng và ngọt, rồi vừa nhấm nháp, vừa vơ
lá, hạt dương khô về cho mẹ thổi cơm.
Gần năm mươi năm rồi, kể
từ ngày ấy. Sinh ra, lớn lên, sinh con đẻ cháu, rồi lại về với đất, đấy là
chu ḱ tự nhiên của Đất, như cây như cỏ. Điều đó đă đành là vậy. Nhưng
khác với cây cỏ, được làm người, chẳng công danh ǵ th́ thôi, dẫu vậy cũng
quá ngậm ngùi, lại mang tiếng là ngụy. Ngụy là giặc, là bù nh́n, là đồ giả.
Làm người, cầm súng của thực dân, đế quốc, c̣n ǵ đau đớn hơn! Không.
Không. Chú Nông siết hai bàn tay, vặn vẹo vô thức. Chính ḷng yêu quê
hương, Đất nước của bao người đă được thổi phồng, được nung nấu, và đă bị
những âm mưu chính trị lợi dụng. Ngày c̣n đi học, ngày xin được chỗ dạy,
thời đi lính ngụy, chú đă nhiệt t́nh yêu nước, nhiệt t́nh chống cộng. Chú
đâu biết ḿnh là ngụy, cứ ngỡ bị đối phương vu khống hàm hồ. Truyền thống
chống ngoại xâm, yêu Tổ quốc đă được đồng nhất với chống cộng. Càng yêu
nước, càng phải chống cộng sản vô thần, bảo vệ di sản tổ tiên. Khi đă hiểu
ra chân và ngụy, đă muộn rồi. Cái guồng máy tuyên truyền ám thị cứ ngày
đêm th́ thầm, gào thét luận điệu của nó, cứ thôi miên con người thành
người máy. Người ta mụ mị, nửa tỉnh nửa mê, bị cuốn đi trong cơn say thuốc
súng. Không. Bao người lính ngụy đă yêu nước đến tận cùng gan ruột. Ḷng
yêu nước ấy, với sự ám thị mù quáng, đă dựng nên những người hùng chống
cộng có thật. Sự ám thị đúng khấc với t́nh cảm yêu nước, ḷng thờ kính Tổ
tiên, Cội nguồn, nên đạt được hiệu quả tối đa, như que diêm đặt vào, đống
củi nỏ rực cháy, không hề vấp phải phản ứng tâm lí nào! Tâm thế của bao
người lính ngụy đă đón nhận ám thị ấy một cách tự hào, thậm chí có người
c̣n nhiệt tâm tự kỉ ám thị nữa! Bây giờ, khi thức tỉnh, sáng ra nhiều lẽ,
bao người đau đớn chấp nhận ḿnh là giặc, lũ giặc trên quê hương, Đất nước
ḿnh, một lũ giặc thất bại, tan hàng thê thảm v́ bị Mỹ và đồng minh của Mỹ
bỏ rơi, phải bán xới, thấm thía bao nỗi nhục nhằn, đau đớn. Về quê, họ gặp
bao người du kích, cán bộ ngày xưa, ngỡ là giặc, lại thành chính nghĩa, và
đích thực chính nghĩa, nên vừa sợ oán thù, vừa tủi thẹn.
Chú Nông đâu phải thuộc
loại mù chữ ngu dốt, nhưng rồi cũng bị tuyên truyền ám thị lừa dối. Đến
bây giờ, đă hai mươi năm hơn, kể từ Ngày Thống nhất, ở chú vẫn niềm đau bị
làm giặc cứa vào ḷng không nguôi. Chú cúi gầm, ràn rụa nước mắt, nghe một
cảm giác cay và đắng nơi sống mũi, cuống họng.
Nh́n những nấm mộ, chú
Nông càng nghẹn ngào. Cái chết của người chết, đă đành. Cái nhục c̣n nặng
nề hơn cái chết, đối với kẻ sống. Biết làm sao bây giờ, trước ba mạ, ông
mệ (bà), Tổ tiên họ mạc, và biết làm sao với con, với cháu.
Gió nam đă thổi khô nước
mắt, chú Nông vẫn rút khăn ra lau ngấn muối mặn. Tiếng thở dài năo nuột
của chú tan trong tiếng vi vu dương liễu và lao xao bạch đàn.
Th́ cũng sống đời sống
của ḿnh, chú thầm nghĩ.
Hơn chín giờ sáng, nắng
gió quê nhà chói chang. Chú Nông rứt một đọt lá hóp, nhai trong miệng,
nhấm nhấm đầu lưỡi, như một thói quen thuở cỡi trâu qua truông. Chú bước
về nhà.
5
Ở làng quê, khác với thị
xă thức khuya dậy muộn, mới chín giờ tối, mọi nhà đă tắt đèn đi ngủ và
sáng sớm c̣n tối mịt đă thức, chuẩn bị cho một ngày mới. Ngày thứ hai ở
quê hương, Hiền Lương suốt buổi sáng đến cả buổi chiều, đi bộ quanh làng,
thăm nhà thờ tộc, lăng mộ ông mệ, lại cùng cha đến nhà bà con xa, láng
giềng thân thiết ngày xưa, nhà của các anh, các chú, bác làm việc trong Uỷ
ban xă, nhà thầy cũ và bạn của cha, trước để thăm, sau là mời dự đám giỗ,
nên tối đến, mỏi ê ẩm chân, vẫn khó ngủ. Đêm nay, đêm thứ tư ở quê hương,
cũng với nhịp điệu thức ngủ của thị xă, cô lên giường, vẫn nằm mở mắt tỉnh
táo, dù suốt ngày hôm qua, đă cùng thím Cận đi chợ huyện, chợ Đông Hà,
bằng chiếc xe đời bảy tám cũ rích, ngợp trong nắng và gió.
Hiền Lương nằm nghĩ bâng
quơ. Cô sực nhớ một ít câu thơ cô đă học thuộc ḷng từ sách giáo khoa hồi
cấp hai, cấp ba ǵ đó - thơ của Tố Hữu:
sông Bến Hải bên bồi
bên lở
cầu Hiền Lương bên
nhớ bên thương
cách ngăn mười tám
năm trường
khi mô mới được nối
đường vô ra
bây giờ cầu lại bắc
qua
ván thơm gỗ mới cho
ta gặp ḿnh
anh về Quảng Trị, Gio
Linh
trèo lên Dốc Miếu,
lặng nh́n Quán Ngang
bời bời cỏ lút đồng
hoang
chim kêu cành cụt
chang chang nắng cồn
tả tơi mấy ấp, khu
dồn
mái tôn rào kẽm tháp
đồn chơ vơ
thương em chín đợi
mười chờ
con đ̣ xưa lại đỏ cờ
sang sông
em vui em mặc áo hồng
máy reo máy đẩy mênh
mông biển trời
thuyền về Cửa Việt ra
khơi
thuyền lên Ái Tử,
thuyền bơi Đông Hà...
Cô nhớ măi đoạn thơ có
nhắc đến chiếc cầu, tên của nó đă trở thành tên cô, đoạn thơ viết về quê
nội của cô, cô chưa từng về thăm cho đến bây giờ. Đấy là thơ của nhà thơ
cách mạng vào thăm Miền Nam từ bảy hai, bảy ba ǵ đó. Cô được sinh ra đời, bốn tháng sau khi Miền
Nam hoàn toàn giải phóng. Mặc dù
chôn rau (nhau) cắt rốn, lớn lên ở Thủ Dầu Một và thành phố Hồ Chí Minh,
gia đ́nh cô trước đây lại thuộc phía đối phương của cách mạng, nhưng hầu
như từ lọt ḷng đến nay, trừ một số bản nhạc cũ cô hát bâng quơ với bạn bè,
cô sống trong không khí cách mạng, Đổi mới. Và cô mỉm cười với gương mặt
cô giáo dạy văn người B́nh Dương trong kí ức. Cô nhẩm lại điệu lục bát vỗ
về, bâng khuâng ấy với những địa danh quê nội. Quê nội của cô đó, thân
thương biết mấy dù lần đầu biết mặt, lần đầu đặt chân đến... Giọng đọc thơ
Nam bộ của cô giáo c̣n ngân nga đâu đây...
Cô đă đi qua Dốc Miếu,
Quán Ngang, hàng rào điện tử Mác Na-ma-ra (2). Cô đă ghé Quán Phượng, chợ
huyện Gio Linh. Thị trấn huyện ngợp bụi đỏ và nghèo khó, lơ thơ hàng quán.
Mới chia huyện lại, thành ra nơi ấy như mới bắt đầu xây dựng lại từ vài
năm nay. Đông Hà, tỉnh lị, có vẻ khởi sắc. Thật ra, trong kí ức cô làm ǵ
có một Đông Hà cũ, đă tan nát, để so sánh với Đông Hà hầu như xây dựng mới
hoàn toàn bây giờ.
Chợ Đông Hà như mấy
chiếc thuyền neo bên sông Hiếu. Chợ có lầu, như boong tàu. Tầng dưới, buôn
bán sầm uất, là hầm tàu. H́nh tượng kiến trúc cũng ngộ nghĩnh. Cô mỉm cười
một ḿnh trong khuya.
Quảng Trị, cát trắng,
nắng cháy, đất ba dan bụi đỏ, đang vào mùa gió nóng từ Lào thổi sang, hút
khô hơi nước, nơi có Gio Linh, Bến Hải - ḍng sông hiền ḥa bỗng nhức nhối
một vết thương lịch sử. Quê nội của cô đó, nơi cô lần đầu về thăm.
Cô chẳng hiểu v́ sao
lịch sử ḱ lạ thế. Nếu, vâng, nếu lịch sử đă khác đi, th́ sao nhỉ? - Cô
mỉm cười - . Sao ḿnh có quê hương là nơi ḍng Bến Hải này? - Cô tự hỏi -
. Có thể chọn lựa số phận không?
Đêm với những ngọn gió
nam nóng đă tắt, trở ngọn nồm từ biển, mát rượi hơi nước, ru cô vào giấc
ngủ. Có lẽ cô bắt đầu quen với tiếng lá tre xạc xào, mùi phân chuồng trâu
tan loăng trong hương rơm mùa gặt đă lên đụn, tiếng đuôi trâu quất muỗi,
tiếng ợ của trâu nhai lại cỏ ngoài đồng. Đêm làng quê đang ru giấc cô.
6
Cả nhà chú Cận, và cả
nhà bác Su nữa, đă thức dậy từ ba giờ sáng. Bây giờ, gần mười giờ, đă xong
xuôi cỗ bàn đâu vào đấy.
Khi mới thức dậy, Hiền
Lương ra nhà ngang ngồi canh lửa. Ngủ muộn, thức quá sớm thế này, đôi mắt
cay xè. Mắt cay c̣n v́ khói dương liễu nữa. Nước trên soong lớn gần ba
chục lít đă sôi. Ngoài sân, Hiền Lương đứng nh́n ra, thấy trên chiếc ghế
dài lam nham vết chàng, vết đục, dùng làm đ̣n bào cho nghề thợ mộc của chú
Cận, một con lợn khá to bị trói gô, kêu eng éc, đang bị dây làm bằng cây
hóp mỡ chẻ hai vặn lại cột mơm, nằm im. Lần đầu tiên Hiền Lương thấy người
ta làm thịt lợn, trông cũng kinh thật. Lưỡi dao phay mài đá mài thợ mộc,
sắc lẻm dưới ánh điện câu từ nhà ra. Thau đựng huyết có bỏ muối hột, đôi
đũa khuấy chực sẵn. Cô không yếu vía, nhưng thật là không nên nh́n. Thảo
nào nhà chùa khuyến khích ăn chay là vậy. Hiền Lương chợt nhớ một truyện
ngắn của Hàn Nguyệt. Cô bước vào nhà, cùng các chị các em, cắt và nhặt các
loại rau quả. Cắt bằng dao, rứt bằng tay những cây trái, rau cỏ có sự sống,
cũng kinh quá đi chứ. Luật tự nhiên kinh thật. Thôi th́ đành vậy. Quen,
quen tất. Giật ḿnh làm ǵ. Không thể thay đổi. Không, đúng hơn là chưa
thể, chưa thể thay đổi luật tự nhiên này, nhưng sẽ thay đổi được, ở trăm,
ngàn năm sau! Khoa học - kĩ thuật sẽ cứu rỗi, giải phóng muôn loài... - Cô
tự trấn an...
Bàn ghế đă mượn quanh
xóm về. Tấm bạt to rộng nghe đâu Hội Chữ thập đỏ quốc tế cứu trợ đồng bào
tị nạn chiến tranh, không nhà không cửa, từ hai mươi mấy năm trước, vẫn
c̣n, được chăng lên.
Bàn thờ sạch bóng. Chú
Cận là thợ mộc nổi tiếng, nên tủ thờ của chú quá sang trọng và tinh tế.
Cái tủ thờ hóa ra có giá trị nhất trong nhà. Lần cúng thứ nhất, trầm trà
hương hoa, mời Tổ tiên ông mệ về nhân ngày giỗ ông, đă được bác Su chủ tế
hồi sớm.
Bây giờ, trước và sau tủ
thờ là mâm thượng chay, cỗ hạ mặn, trong hương khói, nến đèn trang trọng,
trầm mặc. Hiền Lương thấy h́nh như có cả sự vui vẻ nữa. Giỗ, nhớ ngày mất,
vui nỗi ǵ. Nhưng mất là c̣n. Cô thường nghe cha cô giải thích vậy: C̣n
trong huyết thống con cháu, c̣n trong kí ức xóm làng. Mâm cỗ chỉ là tượng
trưng, mời Tổ tiên ông bà về sum vầy liên hoan. Ngày mất thực chất là ngày
đă trọn, hoàn tất một cuộc sống, cho dù mất dạng nào, muốn hay không. Đúng
hơn, ngày mất là ngày chấm dứt, dẫu rằng có thể mọi điều c̣n dang dở,
nhưng dang dở cũng là xong. Ngày kết thúc cuộc đời quan trọng hơn ngày
sinh. Cô biết, có rất nhiều nấm mộ con sa con sẩy, chưa chào đời đă chết.
Tất nhiên người ta vẫn quư trọng. Nhưng tưởng nhớ ngày mất là tưởng nhớ
một con người đă sống, đă có kỉ niệm, đă mắc nợ đời, cống hiến và trả nợ
đời. Ấy là tưởng nhớ một tiểu sử. Tiểu sử ấy, b́nh thường hay lớn lao,
cũng thành huyết thống của con cháu. Ôi, mất là c̣n. Vinh hiển là quư,
nhưng nhỡ đạo tặc, ngụy ngợm th́ sao. Th́ vẫn c̣n chứ sao. Không thành nỗi
tự hào th́ thành niềm đau. Tưởng nhớ, đau một niềm đau về người đă khuất,
cũng vô cùng thấm thía và hữu ích với ḷng bao dung.
Hiền Lương, đă hai mươi
hai tuổi, cử nhân tiếng Anh, tự t́m ṭi vẽ vời các loại tranh từ nhỏ,
nguyện thành họa sĩ, với một trái tim nhạy cảm, chiếc đầu mênh mang suy lí,
đang bâng khuâng suy tưởng. Cô c̣n quá trẻ để già giặn giải quyết cho bản
thân những mâu thuẫn giữa lí - t́nh, với nhiều tính chất giá trị, cấp độ
giá trị không thống nhất với nhau. Cô đang mỉm cười, suy tưởng, trong lúc
chú, bác và cha đang mặc niệm trước bàn thờ.
Lác đác, đă có những
khách mời đến dự tiệc giỗ, tưởng niệm và sum vầy.
7
Khi đă mời bà con cô bác,
đại diện chính quyền, cấp ủy, dân quân ngồi vào bàn cỗ - người lớn tuổi,
quan khách ngồi mâm giữa, con cháu, người trẻ ngồi hai mâm hai bên - bác
Su với khăn đóng áo dài đen hẳn hoi, hai tay đan vào nhau, nắm lại, đưa
cao ngang mặt, khẽ vái chào rất nhẹ. Bác Su thưa, bằng giọng ồm ồm nặng
trịch, với âm sắc chắc gọn, không du dương, trầm bổng, ngân nga, mà đặc
Quảng Trị, vắn tắt vài câu về ngày tưởng niệm ông thân sinh, rồi bác mời
mọi người cầm đũa. Sau đó bác nhờ chú Nông thay mặt cả nhà rót rượu mời
quan khách.
Chú Nông đến bên ông
giáo Hiền, thưa khẽ:
- Thưa thầy, con kính
mời thầy.
Và những cốc rượu được
nâng cao, khai vị với nem chả. Tiếp đến, thay vào cốc là những li uống bia
có đá lạnh hẳn hoi. Đá được mua từ sáng sớm, ủ bằng dăm bào mạt cưa của
chú Cận.
Cuộc tiệc có hơi men bắt
đầu rôm rả.
Bao giờ cũng vậy, người
ở xa quê, lâu năm trở về, được mọi người thay nhau hỏi han. Bây giờ, mọi
người mới rơ thêm, mấy năm nay chú Nông đă thôi chở bánh ngọt bỏ mối cho
các quầy hàng, cửa tiệm. Chú vẫn phụ vợ dọn và dẹp quầy áo quần ở chợ mỗi
sớm mỗi chiều, lại c̣n đi dạy thêm ở tận nhà của vài học tṛ con bạn bè,
tiếng Anh và đàn oọc-găng. Hai cô con gái lớn đă có chồng có con, ở nhà
riêng hoặc nhà chồng. Và Hiền Lương... Chú gọi con ra để giới thiệu. Một
số người đă biết, hôm Hiền Lương đi mời khách với cha, reo lên: Cô cử, xin
cô cử nhân ngoại ngữ ra chào bà con. Hiền lương hơi mắc cỡ, trước sự thân
t́nh đến mộc mạc, suồng să, rất cảm động ấy.
- Thời này là thời tiếng
Tây mà. Mở cửa rồi, Tây bây giờ đi khắp, đâu cũng có. - Một người nào đó
nói.
Lúc đó, ông Hiệu Điên
mới ḷ ḍ cắp chai rượu lễ tới.
- Tây đây rồi. Tây của
làng ḿnh đây rồi! - Giọng ai đó reo.
Mọi người cười ồ. Quả là
ông Hiệu Điên hay nói chêm tiếng Pháp, và thỉnh thoảng trở trời, xùi bọt
mép xổ tiếng Pháp từng tràng dài ngoẵng. Ông nghiêm mặt, tưng tửng:
- Trước hết, xin lỗi
Đảng và Nhà nước địa phương, xin lỗi bà con, tôi đến chậm, v́ các cháu ở
nhà không muốn tôi đến sớm. Sau nữa, xin thưa, nói chêm tiếng Tây là bệnh
của tôi, thói nô lệ. Chống Pháp đến thân tàn ma dại thế này vẫn chưa bỏ
được, có thể chất “bồi” nó thấm trong bao tử rồi. Xin lỗi, xin lỗi.
Mọi người cười thật to.
Một người đứng dậy hoan hô ông Hiệu Điên, mời ông cốc bia. Ông lắc đầu,
quay quay một ngón tay chỉ vào màng tang. Mọi người vui vẻ cười to hơn,
biết ông kiêng rượu.
- Ông nói mỉa, chửi đời
vậy, ai dám học tiếng Tây!
- Xin đính chính, ông
Hiệu nói thật. Không mỉa, không chửi xiên, chửi xẹo. Đó là bệnh của ông ấy.
- Ai đó nói trong tiếng cười.
- Không học tiếng Tây để
dốt à! - Người khác nói.
- Tây là đủ thứ, cứ tóc
vàng mắt xanh, bây giờ đều là Tây. Phải học hết, Tây Tàu chi cũng học. -
Lại một giọng khác.
Ông Hiệu Điên chỉ ngồi
cười. Chú Tập, bí thư chi bộ, gắp thức ăn mời ông. Ông vẫn giữ nụ cười,
cảm ơn. Chú Tập hỏi chú Nông:
- Mở cửa, Đổi mới, vui
không anh Nông?
Chú Nông thoáng ngập
ngừng, mỉm cười:
- Lắm vấn đề lắm. Ở
trong thành phố Hồ Chí Minh, ở B́nh Dương, cũng có ư kiến không tán thành
Đổi mới, Mở cửa kiểu này.
Chú Tập và ông giáo Hiền
giật ḿnh, nh́n chú Nông.
- Cụ thể hơn là sao? -
Chú Tập hỏi.
- Chuyện đời là thế.
Chuyện ǵ cũng vậy, người ư này, kẻ ư kia. Đó là b́nh thường. - Chú Nông
rào đón, dè dặt.
- Anh nói thẳng đi, anh
Nông. - Thầy giáo Hiền cười, nói.
- Thưa, như thế này, chỉ
Mở cửa cho thông tấn, du lịch, và để ra nước ngoài học hỏi, tiếp thu khoa
học, công nghệ. Đổi mới là giải phóng sức sản xuất trong nước thôi. Vấn đề
là vốn, vốn mượn quốc tế, vốn từ tài nguyên. Không chấp nhận ṿi thứ hai
của bạch tuộc, hay ṿi thứ mấy chục, luồn vào các nước nghèo. Đại để là
vậy. Đó là ư của nhiều người khác. Tôi chỉ nghe.
Rồi chú Nông đánh trống
lảng sang chuyện khác. Chú ngại, rất dè dặt. Ở trong kia, thành phố lớn,
khác không khí và tâm thế. Ở đây, làng quê, lại trót gieo thù chuốc oán ít
nhiều, phải cẩn thận, kẻo lỡ mồm, lỡ miệng, không khéo mang họa.
Thầy giáo Hiền biết ư,
cười tin cậy:
- Anh cứ nói thẳng, nói
thật. Ở đây, bây giờ thoáng đăng rồi. Chỗ bà con ruột thịt cả, đừng ngại.
Chuyện xưa, dứt khoát bỏ qua. Chuyện nay, phải cùng nhau bàn.
Nhưng chú Nông chỉ im
lặng cười.
Ở bàn bên cạnh, những
người trẻ kéo Hiền Lương vào ngồi chung từ bao giờ. Cô nói giọng B́nh
Dương pha chút Hà Nội, ai cũng thích nghe. Hành, cháu ông giáo Hiền, cử
nhân sư phạm, đang dạy học ở huyện lị, được mọi người lưu ư. Hành cũng mỉm
cười. Thế là Hành và Hiền Lương chuyện tṛ với nhau khá vui vẻ, với sự vui
vẻ pha chút nghịch ngợm ban đầu của cả bàn.
Chút rượu và bia Hành
nâng cốc với Hiền Lương, khiến cô đỏ hồng gương mặt. Cô thấy quê nội ḿnh
mộc mạc mà trí tuệ, vui quá.
Trong năm bàn, nơi Hiền
Lương, Hành, đám cán bộ trẻ của Uỷ ban xă, Hợp tác xă (đều là thành phần
cơ bản) và một vài chú cựu lính ngụy c̣n trẻ (cũng thành phần cơ bản xuất
thân) là rôm rả, sôi nổi nhất. Bốn bàn c̣n lại, kể cả hai bàn hai bên
trong ngôi nhà ba căn của chú Cận, đều là người lớn. Bàn thứ sáu lại là
bàn đặc biệt, dưới nhà ngang, dành cho lũ trẻ con. Bọn nhỏ này thuộc loại
“đánh nhanh, rút nhanh”, đang kéo nhau ra vườn sau, đá bóng bằng bong bóng
lợn, lấy từ con lợn mới mổ hồi sớm.
Bàn cỗ chay là bàn đặc
biệt.
Sư Thích Tâm Tự, trên bảy
mươi tuổi, vận chiếc áo nâu dài đă cũ, vừa ăn rất khẽ vừa chuyện tṛ cũng
rất khẽ với mấy ông bà cụ già trong khuôn hội Phật giáo của làng. Sư nom
vẫn c̣n khỏe mạnh lắm, giọng nói rơ, không nhèo nḥa âm sắc v́ tuổi tác.
Những người già lắng nghe, trao đổi với nhà sư chuyện chùa, chuyện ruộng
một cách thân t́nh và cung kính. Trong bàn chay này, ngoài các vị, c̣n có
ông Nộp. Ông Nộp, trên tám mươi tuổi, râu tóc trắng phơ, có cặp nạng gỗ đă
lên nước, đen nhánh, bỏ một bên ghế. Ông chỉ là ông từ giữ đ́nh từ sau
ngày học tập cải tạo về đến nay, khoảng từ đầu những năm tám mươi. Ông Nộp
ăn trường mặn, nhưng thỉnh thoảng cũng thích ăn chay cho lạ miệng. Ông là
chú của thím Cận.
Ngày hôm qua, đi cùng
Hiền Lương quanh làng, chú Nông cố t́nh đi bộ, mặc dù nhà chú Cận có xe
gắn máy đời bảy tám, sắm để chạy gỗ. Chú Nông cũng thầm mừng, mức ăn mức ở
của bà con làng xóm có phần tươi lên, nhất là sau vụ gặt chiêm xuân vừa
rồi, rất được mùa. Bây giờ, qua bữa giỗ, quan chức có, neo đơn có, thấy bà
con đă thắm thiết chan ḥa, chú nhận ra đấy mới là điều đáng mừng nhất.
Làng quê, vốn là nơi ra ngơ chạm mặt nhau, nếu thù hận c̣n nuôi trong ḷng,
làm sao sống nổi. Chú Nông lờ mờ suy tưởng trong men rượu say say. Có lẽ
nhờ câu ca dao, bầu và bí một giàn, nhiễu điều giá gương, hay cái đ́nh,
cái chùa ǵ đó. Chú Nông bỗng giật ḿnh, sực nhớ cái giá gương ở nhà họ
Hoàng ḿnh, khung kính có vẽ tranh Đất trời, Non sông Làng nước - con trâu,
thằng cu cỡi trâu, khóm tre, đàn chim... -, sao thiếu mất cái khăn nhiễu
điều? Khăn nhiễu điều, khăn nhiễu điều tượng trưng cho cái ǵ? Chú Nông,
có chút men rượu gạo, cảm khái quá. Chú nh́n quanh, thấy mọi người cũng đă
no say, nên yên tâm rót cho ḿnh lưng cốc rượu nhỏ. Và chú bỗng ngậm ngùi,
nghĩ hai hôm nữa phải trở lại Sài G̣n rồi, v́ c̣n công việc, c̣n giữ nhà
cho mẹ Hiền Lương ra thăm. Không biết cô ấy có đổi ư không. Dẫu sao, ở lại
lâu tại quê nhà, thân phận thằng sĩ quan ngụy, có tham gia đảng phái chính
trị, có một thời hăng máu chống cộng, gây thù chuốc oán - mặc dù cũng yêu
nước, yêu quê nhà mà chống cộng, nhưng ai hiểu cho -, không, không, ở lâu,
thật không nên. Ờ, cái khăn nhiễu điều là ǵ nhỉ, là chi rứa hè? Chú Nông
trầm ngâm, buồn buồn, mắt nh́n ra sân. Bóng nắng đă xế rồi. Ở mấy bàn cỗ,
chú thấy đă có người đứng dậy trong tiếng chào tiễn. Chú Nông cũng đứng
dậy, bước tới tiễn khách.
TXA.
CƯỚC CHÚ chương I:
(1) Xem phần chú thích
cuối sách; mục từ số: II.1.
(2) Tên riêng, từ ngữ
tiếng nước ngoài, xin xem chú thích I cuối sách.
Lưu ư:
Phần chú thích cuối sách
hoặc cuối chương, tạm gọi là hậu chú (endnote). Ở 15 chương của cuốn tiểu
thuyết này, vốn không có hậu chú cuối chương, mà chỉ có chú thích cuối
trang, gọi là cước chú (footnote). Tuy nhiên, để tiện cho việc đưa lên
mạng internet ở các tạp chí điện tử (các websites), tôi đổi cước chú (cuối
trang) thành hậu chú (cuối chương), nhưng vẫn ghi là cước chú của chương.
TXA.
(
xem tiếp chương II
)