HÀN NGUYỆT
nhà văn, nhà báo
Họ Lê
(nhân
tộc Kinh - Việt Nam)
Sinh năm 1965
Nguyên quán: Cam Lộ, Quảng Trị
Tốt nghiệp khoa ngữ văn, Đại học Tổng hợp - Huế (1988)
Hiện là phóng viên, biên tập viên Đài PTTH. Quảng Trị
Hội viên Hội nhà báo Việt Nam
Hội viên Hội VHNT. Quảng Trị
Cộng tác viên của nhiều báo, tạp chí
Tác phẩm đã xuất bản:
-
Hồi ức mùa thu, tập thơ, Nxb. Văn Học, 1999
-
Trăng bạc, Nxb. Thanh Niên, 1999
Có tác phẩm trong nhiều tuyển thơ, tuyển truyện ngắn in chung (Còn đây
thương nhơ, Văn xuôi Việt Nam & thế giới, Lục bát tình, Truyện ngăn
hay - báo Văn Nghệ Trẻ, Thơ tình Việt Nam & thế giới chon lọc, Non Mai
sông Hãn - hợp tuyển văn chương Quảng Trị 100 năm - XX...).
Trinh nguyên
Hàn
Nguyệt
Chị xắn quần. Chị xắn quần khéo như
người cuốn bánh. Chân chị vẫn còn trắng lắm, trắng đến xót xa. Chị đặt
chân phải xuống ruộng, lớp bùn nâu thẫm phún lên kẽ chân. Cảm giác lành
lạnh chạy dọc theo chân phải. Chị rùng mình. Cái cuốc con lưỡi chỉ to
hơn môi múc canh rơi chỏm xuống ruộng. ấy chết, gãy mất hai nhánh lúa.
Chị vội nhặt cuốc lên. Tay phải thấm nước, lạnh rờn rợn lên vùng ngực.
Chị ôm lấy ngực theo phản xạ tự nhiên. Ngực chị đầy chặt tay. Chị mỉm
cười cúi xuống. Vớ vẩn. Ruộng vẫn nguyên cỏ, làm kẻo trưa.
Nắng bắt đầu lên. Tháng giêng nắng
nhạt, lẫn bụi sương, rủ rê trên da thịt. Cái cuốc con đẩy lui thoăn
thoắt trong tay chị. Một mình có ba sào lúa với hai sào khoai, chăn nuôi
gà, đàn lợn nái cũng mướt mồ hồi. Ăn một mình đau tức, làm một mình cực
thân. Số chị đã vậy, đành chịu.
Chị thấy nhồn nhột đằng sau gáy. Có
ai đó đang nhìn mình. Nắng chếch đổ một chiếc bóng dài xuống ruộng,
những gợn sóng làm cho chiếc bóng ngùng ngoằng. Chị dừng tay. Ðúng ông
ta. Người cao lớn vòm ngực nở, mắt hơi xếch, ông ta như một kẻ sơn
tràng. Cục mịch mà mạnh mẽ. Chính cái đôi mắt xếch với tia nhìn dữ dội
ấy làm chị khó chịu đằng sau gáy. Chị cố tình không quay mình. Cái cuốc
con tiếp tục động đậy.
- Thím Thư, tôi có chuyện.
- Ủa anh Hải. Chuyện chi mà trái
đường trái gió rứa.
- Là... cũng chuyện quan trọng. -
Ông Hải nhè nhẹ đặt cày xuống đất, xắm rắm lựa thế ngồi - Thím nghỉ tay
lên bờ tôi nói rõ.
Ai thấy thì chết. Chị ngượng nghịu
dúi dúi cây cuốc.
- Thôi trưa về nhà hãy nói. Ruộng
còn ngồn ngộn cả cỏ. Anh thông cảm.
- Không, thím Thư, là tôi muốn nói
cái chuyện mộ chú Ngộ ấy mà. Tiện đây gặp thím, tôi cũng không có ý tìm.
Rứa thì được. Thanh thiên bạch nhật.
Mình cứ thói xấu hổ đa nghi, trách gì già rồi như kẻ nít.
- Dạ để tôi rửa tay.
Ông Hải bảo hồi này Nhà nước quan
tâm đến chính sách thương binh liệt sĩ. Mộ chồng chị đừng nên để mãi
trong vườn nhà. Nghĩa trang liệt sĩ ta đẹp, vừa rồi mới được tôn tạo,
nên để xã đưa chú ấy vào nghĩa trang, ở vườn nhà chị chăm sóc chu đáo
đấy nhưng chú ấy không có đồng đội, cô đơn.
- Rứa là anh muốn để tôi cô đơn? -
Chị rơm rớm nước mắt.
- ờ... mà... ý tôi là như các anh
trên xã. Còn thím thì... để mấy sào khoai tôi cày luôn thể, thím tự làm
cực quá.
Chị quẹt nước mắt, bùn ở tay áo
dính một chút vào đuôi mày. Ông Hải định gạt vệt bùn cho chị nhưng ông
đã rụt tay lại. Gương mặt nồng nàn nhưng trầm uất của chị khiến ông
không nỡ đụng vào. Ông Hải bứt vài ngọn cỏ, bập bập vào hàm răng chắc
rịt:
- Việc cày bừa của nhà tôi chỉ một
mình tôi lo thừa sức. Chỉ tội cho hai đứa con gái, phần lo học hành,
phần lo vườn tược. Thím thì chẳng chịu làm bạn với tôi. Ông Hải dặng
hắng - Thím có mang nước theo không?
Chị giật mình:
- Dạ. Dạ, có.
Nước lá nấu sôi kỹ, cho vào bi đông
ủ trong bọc vải, quá nửa buổi nước vẫn còn ấm. Chị thận trọng rót nước
ra nắp bi đông mời ông Hải. Mỗi nắp bi đông vừa vặn một ngụm. Nước lá
chị nấu uống thơm tận tóc.
Ông Hải chép miệng:
- Ngon. Thiệt tình thím nấu nước lá
ngon nhất xóm.
Quê chị lắm đồi trọc, lúp xúp cây,
đa phần là sim mua, thảo mộc. Trưa đúng ngọ lên đồi bẻ lá, lá vối, lá
vằng, lá hón, lá bướm bạc, lá ngấy, bông trang rừng... phơi khô, nấu kỹ,
đi biệt chân trời vẫn còn lẩn quẩn mùi nước lá trên môi.
"Bọn mất gốc mới uống nước trà. Trà
móc câu, trà Thái, trà nhài, trà sen, trà gì cũng đậm lưỡi nhưng chẳng
có thức uống gì vừa bổ dưỡng vừa đậm đà hương vị bản xứ như nước lá". ấy
là chị nghe lỏm chuyện của ông giáo Phùng với tay kỹ sư nông nghiệp buổi
tối chị gánh nước qua.
Chị đặt bi đông nước xuống cỏ:
- Anh Hải à. Ơn anh tôi còn mang
nặng lắm. Anh khuyên gì, bảo gì tôi cũng cúi dạ, riêng chuyện mộ anh Ngọ,
anh cứ nói thẳng với mấy ông trên xã đừng đụng đậy làm chi. Sinh có
nguồn, thác có cội, anh Ngọ ở trong đất đai cha mẹ tổ tiên là tốt lắm
rồi.
- Thím Thư, hai mươi mấy năm rồi
thím đày đọa thân. Tôi thiệt bụng thương thím. Nếu thím gật đầu thì trầu
cau vẫn chưa muộn. Tôi có ý...
- Thôi anh Hải. Ủa nắng lên lửng
ngọn cây vối. Anh về kẻo thiên hạ nhòm ngó. Ruộng vẫn còn ngộn cả cỏ,
anh thông cảm.
Chị lật đật xuống ruộng. Chị xắn
quần vội như người cuốn bánh bị khách giục. Ông Hải lắc đầu, uể oải nhấc
cày lên vai. Ông cười thảm hại.
Ông Hải vác cày đi chông chênh trên
bờ ruộng. Chị cảm thấy rõ lúc này chiếc cày quá nặng với sức lực vốn rất
cường tráng của ông. Mái tóc ông còn đen dày hơn tuổi năm mươi ba. Ông
Hải đẹp hơn chồng chị nhiều. Chồng chị ngày xưa lỏng khỏng, ai nói gì
cũng rụt cổ cười. Nhưng chồng chị có tài ép hoa thị thơm lâu đến mê
muội cả đám con gái mấy làng thung. Mớ hỗn độn ký ức lẫn với những cảm
xúc hiện tại làm chị nhói đau. Chị ôm ngực ho húng hắng rồi lệt xệt dần
vào bờ. Chị ngồi phệt xuống mép ruộng, thõng chân xuống nước. Thế là quá
buổi sáng. Thế là quá nửa đời người. Chị khép đôi mi rợp cho hai giọt
nước mắt lăn khẽ qua.
Ngày chị lấy chồng, chỉ có mẹ vui.
Ngày ấy chị có hai mươi tuổi lẻ. Cha mẹ chị chỉ có mỗi mình chị. Cấy lúa
ruộng trũng, trồng khoai đất đồi, dăm bảy cây mít cây dứa đủ để nuôi chị
lớn. Da hồng rựng, tóc dày mượt, đôi mi rợp buồn. "Ngữ ấy hồng nhan bạc
phận" - mấy mệ bà chằng tụm đầu dè bỉu chị. Chị đẹp ngời ngợi ở tuổi
mười chín, đôi mươi, điều đó khiến thằng cha thợ rèn khó tính nhất làng
cũng phải thừa nhận. Trời còn cho chị một cái đẹp hiếm có: gót chân son.
Cha chị gót chân chai sần, đi rừng không cần dép. Chân mẹ chị nứt nẻ, ra
đồng mùa nắng khó phân biệt đường nứt ruộng với đường nứt chân. Gót chân
chị đỏ hồng, mịn bóng hơn cả da mặt. Chân đất lội bùn, đạp đồi đào củ,
hái rau, từ bé cho đến tuổi lấy chồng gót chân chị không hề có vết rạn
nhỏ. Chị yêu gót chân chị lắm. Mỗi tối sau khi rau heo cháo chó chu tròn,
chị ngồi lên giường nắn nắn gót chân. "Mình nghèo chẳng có gì cũng được
đôi gót chân son" - Chị cười an ủi.
Tưởng chẳng ai chú ý đến đôi gót
chân ngà ngọc của chị, nào ngờ anh chàng Ngọ làng bên phát hiện ra. Ngọ
là con út ông bà Liên, hai vợ chồng bác sĩ duy nhất của cả ba làng.
Những năm ấy trai gái rậm rực vào
dân quân du kích. Ngày cày ruộng cuốc rẫy, đêm tập trận bày bố kế hoạch
đánh đấm không khí bùng bục như rượu nén. Chị vào du kích làng Thung
Thượng, Ngọ du kích làng Thung Hạ. Một đêm vào cuối năm 1971, tiểu đội
du kích của chị và tiểu đội của Ngọ được phân công đi dò đường lên cứ
điểm địch ở Ðầu Mầu. Ði từ tám giờ tối, lần theo núi, đồi, khe, suối,
khi trở về thì trời đã rạng. Chị thấm mệt, bấu vào vai Ngọ để vượt suối
La La. Ðôi mắt tinh anh của Ngọ đã phát hiện ra đôi gót chân hồng ửng
như táo chín. Ngọ mê gót chân chị. Bà Liên giục chồng hỏi vợ cho con.
Cha chị chưa muốn gả con. Nó còn dại
quá, tội nghiệp. Nhưng mẹ chị mừng lắm, lấy được con trai gia đình thầy
thuốc duy nhất trong vùng, trái gió trở trời cũng đỡ lo, lại gia đình
cách mạng, tốt quá, phúc quá.
Những tháng sau Tết 1972, ngòi cháy
của cuộc chiến tranh sắp đến độ bùng nổ. Hình như ai cũng linh cảm được
điều đó. Ðám cưới chị buồn tẻ, vội vã, đầy những âu lo. Chỉ có mẹ chị
vui như tất cả các mẹ nông thôn Việt Nam gả được con gái không còn lo ế
ẩm.
Ðêm tân hôn. Chị khổ sở ngượng ngập
vì đúng ngày kiêng trong tháng. Ngọ rụt cổ cười, hai đứa bẽn lẽn như trẻ
chơi đồ hàng bị hỏng. Chị hôn Ngọ rất lâu, để bù lại những cái hôn vội
vàng đêm trăng tập trận, bù lại sự rủi ro của chu kỳ con gái rơi đúng
vào đêm ngọc ngậm hoa cười.
Cưới nhau được hai ngày. Cuộc tổng
tấn công bùng lên. Cả vùng bờ nam sông Bến Hải ầm ầm trong bão đạn. Ngọ
nhận lệnh theo tốp giao liên dẫn bộ đội chủ lực đánh chiếm cứ điểm Ðầu
Mầu. Ðó là ngày mùng hai tháng tư năm bảy mươi hai. Chị nghe tin báo
nhận xác chồng. Ông bà Liên đau đớn mất con nhưng lẫn cả niềm tự hào, nó
đã hoàn thành nhiệm vụ. Hôm đó. Gio Linh, Cam Lộ chấp chới cờ đỏ sao
vàng, chị đeo tang chồng, ôm gót chân khóc không thành tiếng.
Chị ở với cha mẹ chồng ba năm nữa
thì anh Thìn, anh trai cả của Ngọ về. Anh Thìn là đại tá, chị vợ thượng
úy. Anh chị cất được ngôi nhà khang trang ở phố huyện, mời cha mẹ cùng
ở. Chị một mình với ngôi mộ chồng côi cút cho đến tận bây giờ.
Chị cũng không ngờ mình nguyên vẹn
cho đến lúc này. Chị đã yêu chồng biết bao nhiêu. Ngọ cao mảnh, da trắng,
miệng nói có duyên. Khi Ngọ nói, chị muốn uống từng tiếng. Ngọ yêu chị
lắm. Ngọ ép rất nhiều hoa tặng chị. Nhiều khi tập trận, Ngọ giấu theo
một gói hoa thị ép khô. Mãn buổi tập, hai đứa lại lên đồi sim, Ngọ rải
hoa thị lên tóc chị, lên môi chị, bỏ vào ngực áo chị. Thơm. Thơm ngất cả
đồi trăng. Thế mà bao giờ Ngọ hôn chị cũng vội vàng: "Về nhé, bảo đảm
sức khỏe mai đi tập. Khi nào hai đứa cưới nhau...". Chao ôi. Vậy mà cả
ngay một lần làm vợ chị cũng không có được. Nhiều đêm nghĩ miên man, chị
bóp gót chân đến buốt mà không biết.
Hồi mới giải phóng, chị suýt ngã
lòng. Ấy là vì cái anh chàng hạ sỹ Mận ở tiểu đoàn 17 đóng quân gần làng
chị. Mận quê ở Bắc Ninh, hát quan họ ngọt mướt, miệng hát duyên hết rớt
lưỡi hái. Mỗi lần chị đi gặt, Mận đòi làm "dân vận", gặt lúa giúp. Lúc
đầu chị đuổi khéo, dần dà mê hát, ngồi bệt xuống cỏ quên cả bó lúa, cười
đắm đuối. Tình hình đến tai ông bà Liên, bà Liên mắng chị tơi bời. Nào
bẽ mặt cha mẹ chồng. Chồng hy sinh chưa hết khó đã lúng liếng. Liệu mà ở
cho thơm mặt nhà chồng, thơm mặt vợ liệt sĩ. Chị khóc. Chị tự rủa mình.
Chị lặng lẽ ôm gót chân và tự hứa chẳng bao giờ mềm lòng nữa.
Chị tưởng chị sẽ bị cha mẹ chồng cột
chặt vào ngôi nhà rường ba gian với ngôi mộ chồng quanh năm hoa cỏ. Ai
dè bà Liên có lần đến ở lại thủ thỉ với chị hẳn một đêm. Ðại khái làm
thân đàn bà con gái phận mỏng, con còn trẻ tuổi, mẹ tùy con lựa bề tái
giá. Bà Liên còn gợi ý có thằng Phi đẹp người tốt nết ở làng Yên Thịnh,
dạm ý bà gả con dâu.
Chị sực nhớ. Phi có chiếc xe đạp
Thống Nhất, mỗi lần chị đi chợ thường dắt theo. Hỏi: "Sao không đạp xe?",
đáp: "Xe hỏng". Phi rất đẹp trai. Mái tóc bồng hay gãi rối lên mỗi khi
nhìn chị.
Mấy buổi chiều sau hôm bà Liên thủ
thỉ. Chị bồn chồn không yên. Chị nhận ra mình mong Phi, đợi Phi, rồi giả
tảng mắng mình vô duyên.
Phi đến thật. Phi mang đến mấy bông
hoa giấu trong vạt áo. Phi ít nói, chỉ cười, nụ cười úp mở lời yêu. Chị
rót nước, rơi vỡ hết bốn cái cốc. Phi nhặt từng mảnh sứ, vô tình nhặt
phải ngón tay chị. Phải đến bảy tám hôm sau chị mới quên được cái vô
tình hôm ấy.
Thỉnh thoảng Phi đến, vẫn dắt xe.
- Sao anh không đạp mà dắt cho mỏi?
- Xe hỏng. Thử giúp xem nó hỏng chỗ
nào.
- Úi dà. Súng các loại hỏng đâu em
còn biết cách chữa chứ xe pháo thì em xin hàng.
- Nói đùa. Pháo thì tôi là tay thiện
xạ. Hồi lính, xe tăng xe pháo đối với tôi như trò chơi. Hay thật. Xe
tăng trườn đồi. Xe tăng lội nước mới khoái, đạn sẵn tha hồ vãi. ấy chết...
- Phi bịt miệng không kịp. Anh ta quên mất anh là lính thiết giáp ngụy
đang nói chuyện với vợ liệt sĩ.
Chị ôm gót chân tự rủa mình đúng
mười lăm hôm. Trời ơi, biết đâu quả đạn của Phi đã cướp đi Ngọ của chị...
Phải rồi, hồi giải phóng Phi đi cải tạo, vợ chưa cưới bỏ Phi. Trời ạ, mà
sao mẹ chồng ta cũng loạng quạng. Chị oán mình, oán đời rồi khóc, bóp
đau nhừ cả gót chân.
Ðêm vùng trung du u u tiếng côn
trùng. Thi thoảng lắm vào mùa mưa mới có tiếng ếch nhái, ễnh ương. Ðêm
chị thường tắt đèn đi ngủ sớm, nửa khuya lùng bùng dậy dỏng tai nghe
tiếng cú, tiếng vạc, tiếng chuột sục sạo. Ðôi khi các cháu nội ông giáo
Phùng khóc đêm, nghe hủ hủ rồi nhòa hẳn vào tiếng đêm. Ngôi nhà cha mẹ
chồng nhường cho chị ba gian lợp ngói. Ðêm cả ba gian nhà là vương quốc
của chuột, gián, thạch sùng, có cả rết và bò cạp. Chị chẳng nỡ đuổi
chúng. Ðêm quạnh quẽ, quan sát chúng đỡ cô đơn.
Khổ sở nhất là những đêm trăng sáng.
Trăng trung du độc địa, sáng vặc như soi tận nơi sâu kín của người ta.
Vại nước đầy trăng. Chị vục nước tắm, trăng vỡ ra xõa lên mình chị.
Trăng trung du trần truồng rất khó chịu. Tàu lá chuối gợi tình, phẩy
phẩy, lấp lóa sáng. Gốc mít lâu năm đen đủi như gã đàn ông rình rập, dòm
ngó chị. Chị cười khẩy, chẳng có ai cả, ai mà rỗi hơi.
Chị cẩn thận kỳ cọ, dù biết chẳng có
gì để kỳ cọ. Từ cái cổ tròn, chị lần xuống ngực. Tay chị làm lụng nhiều
da tay ram ráp, xoa lên cặp vú căng muốt cứ ngỡ ai đặt tay lên. Vai chị
cũng mềm. Ngày xưa Ngọ chỉ mới hôn lên đó. Ngọ chưa hôn vào chỗ nào
ngoài môi và vai. Mấy mệ bà chẳng bảo đàn bà
sướng nhất là mông, mông nục nạc đàn ông đụng vào như nam châm gặp sắt.
Chị chẳng dám sờ tay vào nơi khốn khổ nhất của mình. Nếu phải kỳ cọ, chị
dội nước thật nhanh như ma đuổi. Chị ngắm mình rồi ngửa cổ hình
dung những điều quái gở. Nếu có ai đó yêu chị, hẳn người ta sẽ xiết lấy
chị mà thốt lên, chị là nữ thần, như tượng nữ thần cụt tay chị thấy ở
nhà ông giáo. Ừ, nếu có ai đó để yêu, chị sẽ làm thế nào nhỉ,
ít nhất là xem cặp mông tròn mẩy của chị có phải là nam châm không.
Mùa trăng trung du dài. Chị hao mòn
đi chút ít và đôi mi rợp thấp hơn.
Một đêm vào cuối mùa trăng, trời se
lạnh, chị tắm táp vội vã. Chưa kịp mặc áo, chị bắn người vì hai bàn tay
sắt quắp lấy chị. Một thân thể nóng rực như lò than áp vào. Chị chỉ kịp
hét lên: "Bác Phùng ơi, cứu cháu", thì bị đè vật xuống. Gã sờ soạng, gã
tìm miệng chị để bịt lại. Một tay gã tìm nơi khốn khổ nhất đời chị, gã
thở như lợn bị trói. Nhưng trời cho chị sức lực đạp đổ cả cây vối chặt
nửa. Gã đàn ông đen nhẻm lòng khòng, tay chân cứng như nạng sắt bị chị
xô bật, văng ra đám nhầy chỗ vại nước. Chùm bầu khô rơi loảng xoảng.
Gã đàn ông biến vào vạt chuối.
Ông giáo Phùng vác gậy lạt xạt băng
qua vườn.
- Trộm hử?
- Dạ. Dạ không. - Chị khép vạt áo -
Thằng Thỉ thợ rèn bác ạ.
- Không sao chứ? Khổ quá! Thằng này
phải nhờ ông Hải giã cho một trận mới được.
- Dạ thôi bác, không có sao đâu mà,
bác đừng nói gì xấu mặt cháu.
Ông Phùng không nói gì thật. Ông chỉ
bảo con Hồng cháu ngoại học lớp bốn sang ngủ đêm với chị. Con Hồng tính
rụt rè nhưng chăm đọc sách. Có lần đọc sách xong nó bảo:
- Dì Thư sao không lấy bác Hải? Bác
Hải coi bộ thương dì lắm.
- Úi dà. Hồng muốn dì Thư thành mụ
dì ghẻ trong chuyện Tấm Cám đó hử?
- Eo! Vậy thì thôi. Làm dì ghẻ chán
chết, dì ha.
Con Hồng ngủ, mặt nó phảng phất cười,
chị nắn nắn gót chân không ngủ được.
Cây vối đơn độc đầu bờ ruộng hồi bom
đạn sạt tận gốc. Hai mươi mấy năm chồi khẳng khiu cao dần. Lá của nó đủ
chị hái uống suốt đời. Mùi vị nước lá uống không tả được, chỉ thấy ngan
ngát nhẹ bẫng cả mặt, cả đầu. Nước lá chị nấu, có một người biết là nó
ngon đến mềm môi. Ông Hải. Ông Hải là trung đội trưởng du kích hồi ấy,
ông Hải xót Ngọ lắm. Ông Hải cũng thương chị. Ban đầu ông thương như một
người anh cả thương đứa em út bạc mệnh. Rồi ông cũng không cắt nghĩa
được sự quyến luyến của ông. Hình như. Mà phải. Ông yêu chị. Vợ ông hiền
thục, sinh hạ được hai cô con gái rồi chết trong lần sinh thứ ba. Vợ ông
to khỏe, có thai chín tháng vẫn đi chặt củi, đốt than. Sinh con to quá,
trạm xá xã dốt nát, uể oải chẳng ai giúp chị kéo được đứa con trong bụng
ra. Vợ ông chết, đứa con thứ ba chưa sống được một giờ cũng chết. Ông
thành người bất hạnh.
Ông Hải là người hay mộng mị. Suốt
nhiều năm rồi ông ít mơ thấy vợ, chẳng mơ thấy gã thợ rèn khó tính
thường cãi nhau với ông vì rèn rựa chóng cùn, ông chỉ mơ thấy chị. Chị
đẹp quá, nồng nàn quá. Ngọn đèn leo lét nhà chị bao giờ cũng tắt khi bầy
lợn không còn kêu in ỉn nữa. Chị một mình nuôi lợn nái, gà bầy, một mình
cuốc đất, bó lúa, sảy rơm. Chao ôi. Những việc nặng nề kia, ví như việc
sửa lại gian bếp lâu năm mối mọt, lẽ ra lực trai như ông làm mới phải.
Ông muốn nói với chị ông yêu cả những nếp nhăn mủi lòng bắt đầu gợn lên
đuôi mắt chị. Vậy mà ầm ờ mãi ông chẳng nói được gì.
Cả vụ lúa đông xuân, ông theo dõi
năm thửa ruộng cộng bằng ba sào của chị. Vụ này không sâu bệnh, mưa
thuận gió hòa.
- Ðược mùa rồi đó anh Hải. Mấy năm
ni mưa lũ nhiều, huyện đồng bằng nghe nói có nước cuốn trôi cả trăm ngàn
tấn. Mình đây lúa má ít ỏi, dăm bảy tạ được mùa cũng đã mừng húm.
- Thím Thư à. Ruộng thím ruộng tôi
chập lại bằng một sức người làm. Thím cứ để chuyện gặt hái cho tôi, ở
nhà nấu nước lá cho ngon là được.
- Anh Hải hay đùa. Quá nửa đời tôi
có chết cũng đã vừa, huống chi đôi ba sào lúa đâu có nặng nhọc mà anh
làm lớn chuyện.
Chị tủm tỉm. Tay chị bó lúa chắc và
khéo như tay đàn ông. Chân trái bấm xuống ruộng, chân phải đạp hờ lên bó
lúa, dây lạt tre mềm mại "kít" một tiếng khe khẽ. Bó lúa gọn thon như
lưng chị. Chị xóc lúa cũng khéo. Tay phải nhấc đòn xóc, xoay một vòng,
chị đặt mũi xóc đúng vào giữa tâm bó lúa, nhún một cái, mũi xóc găm qua
chạm mặt ruộng. Chị hất bó lúa ngược lên, đặt mũi xóc kia vào bó lúa thứ
hai, nhún nhẹ. Gánh lúa vụt bẫng lên vai, không rơi một hạt.
Ông Hải chỉ còn biết lắc đầu. Hai bó
lúa vàng rộm nhún nhẩy theo bước chân.
Từ xa vẫn thấy đôi gót chân đỏ hồng
của chị đạp lên thảm gai trinh nữ, có cả mùi nước lá theo về dưới chân
đồi.
Tháng tư 1997
Hàn Nguyệt
(Nguồn:
Tập truyện ngắn
"Trăng bạc", Nxb. Thanh Niên, 2000, tr. 5-22;
đã đăng trên
một số web:
vietmessenger.com
&
khpt.khanhhoa.net.vn v.v...)
Đưa lên
web.:
19-12 HB6 (2006)
(
trở về trang 1 : Mục lục Văn của những người cùng
thời )
http://c.1asphost.com/TrXuan
An/an/trangcnncthoi/trangcnncthoi_van.htm
( xem tiếp văn của những
người cùng thời -- trang 4 )